Xuất nhập khẩu của Trung Quốc hồi phục mang lại hy vọng kinh tế khả quan

Dầu thô giảm phiên thứ 5 liên tiếp, vàng tăng

(VINANET) 09/08/2013 – Giá đồng và các kim loại công nghiệp kỳ hạn đồng loạt tăng trong phiên giao dịch 8-8 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 9/8 giờ VN) sau số liệu thương mại khả quan của Trung Quốc làm gia tăng hy vọng về nhu cầu kim loại, trong khi giá vàng cũng tăng bởi lo ngại về lạm phát dịu lại, góp phần đẩy tăng chỉ số giá hàng hóa phiên thứ 2 liên tiếp.

Dầu thô kỳ hạn giá giảm phiên thứ 5 liên tiếp bởi các thương gia bán tháo, mặc dù có thông tin nhập khẩu dầu thô vào Trung Quốc – nước tiêu thụ dầu lớn thứ 2 thế giới – tăng lên mức cao kỷ lục mới.

Xuất nhập khẩu của Trung Quốc tháng 7 bất ngờ tăng làm dấy lên hy vọng rằng nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới có thể ổn định trở lại sau hơn 2 năm giảm tốc, mặc dù sự hồi phục mới chỉ bắt đầu và còn chưa chắc chắn.

Chỉ số 19 hàng hóa nguyên liệu Thomson Reuters-Jefferies CRB tăng 0,7%, tăng phiên thứ 2 liên tiếp sau khi sụt giảm gần đây do lo ngại về kinh tế.

Đồng kỳ hạn tại Sở Giao dịch Kim loại London (LME) tăng 2,6% lên 7.185 USD/tấn sau khi đạt 7.215 USD/tấn, mức cao nhất kể từ ngày 11/6. Nhôm, kẽm và nickel cũng đạt mức cao nhất 2 tuần.

Vàng tăng 2% lên trên 1.310 USD/ounce cũng bởi những số liệu kinh tế Trung Quốc lạc quan. Giá vàng tăng do chỉ số USD tiếp tục giảm. Trung Quốc tăng kim ngạch xuất khẩu là dấu hiệu cho thấy khả năng phục hồi và tăng trưởng kinh tế. Hội đồng vàng quốc tế (WGC) vừa đưa ra dự báo Trung Quốc có thể vượt Ấn Độ trở thành nước nhập khẩu vàng lớn nhất thế giới trong năm nay.

Tính từ đầu năm 2013 đến nay, giá vàng giảm 23% do ảnh hưởng bởi những tín hiệu lo ngại từ quyết định của Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) với mục tiêu sẽ giảm chương trình nới lỏng tiền tệ từ tháng 9 tới do kinh tế Mỹ phục hồi.

Giá dầu thô giao sau tại thị trường Mỹ đã giảm ngày thứ 5 liên tục, trong khi giá khí tự nhiên đột ngột tăng bất chấp số liệu hàng tuần cho thấy lượng cung cao hơn ước tính.

Giá dầu thô ngọt, nhẹ giao tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa New York giảm thêm 97 cent, tương ứng với mức 0,9%, xuống còn 103,40 USD mỗi thùng. Trước đó, vào đầu phiên giá dầu loại này có lúc lên gần 105 USD sau khi Trung Quốc, nước tiêu thụ dầu thô hàng đầu thế giới, công bố dữ liệu thương mại lạc quan trong tháng 7.

Trên sàn giao dịch London, giá dầu thô ngọt, nhẹ Brent Biển Bắc giao tháng 9 cũng giảm thêm 76 cent, tương ứng với mức 0,7%, xuống còn 106,68 USD mỗi thùng. Hiện chênh lệch giá giữa hai hợp đồng dầu thô giao sau tại New York và London đã được mở rộng lên hơn 3 USD, sau khi đã liên tục bị rút ngắn trong thời gian qua, có lúc còn xuống vài cent.

Theo giới phân tích, việc giá dầu New York đi lên sau báo cáo thương mại tháng 7 của Trung Quốc rồi nhanh chóng đảo chiều đi xuống, để kéo dài chuỗi ngày giảm giá, cho thấy lực đỡ từ thị trường tiêu thụ dầu thô hàng đầu thế giới này vẫn chưa đủ mạnh. Giới đầu tư năng lượng vẫn chưa thấy lợi ích thực tế từ sự đi lên của số liệu nhập khẩu Trung Quốc.

Ngược với xu hướng của dầu thô, giá khí tự nhiên giao cùng kỳ hạn bất ngờ tăng 5 cent, tương ứng với mức 1,5%, lên 3,30 USD/ triệu BTU, sau khi Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ công bố báo cáo lượng cung trong tuần qua (kết thúc ngày 2/8) cao hơn so với các ước tính ban đầu của giới nghiên cứu trong cuộc điều tra ý kiến dư luận do Platts tiến hành.

Trước khi có báo cáo này, mặt hàng khí tự nhiên được giao dịch ở khoảng giá 3,24 USD, sau đó còn rớt xuống 3,13 USD, theo số liệu của FactSet. Theo giới phân tích việc thị trường phản ứng trái chiều với báo cáo thực tế do Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ công bố, là điều khá lạ. Thông thường giá khí sẽ suy yếu khi áp lực dư cung lớn hơn dự tính.

Giá cacao kỳ hạn tại New York và London đạt mức cao kỷ lục nhiều tháng, do lo ngại về nguồn cung ở khu vực tăng trưởng hàng đầu là Tây Phi và hoạt động mua của các quỹ hàng hóa.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/-(%)

So với đầu năm (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

103,50

-0,87

-0,8%

 12,7%

Dầu thô Brent

 USD/thùng

 106,65

-0,79

-0,7%

 -4,0%

Khí thiên nhiên

 USD/gallon

 3,297

0,050

 1,5%

 -1,6%

Vàng giao ngay

 USD/ounce

 1309,90

24,60

 1,9%

-21,8%

Vàng Mỹ

 USD/ounce

 1311,10

23,96

 1,9%

-21,7%

Đồng Mỹ

US cent/lb

3,27

 0,10

 3,0%

-10,4%

Đồng LME

USD/tấn

7185,00

 179,00

 2,6%

 -9,4%

Dollar

 

81,009

 -0,278

-0,3%

5,5%

 CRB

 

283,486

1,950

 0,7%

 -3,9%

Ngô Mỹ

 US cent/bushel

 473,50

 5,25

 1,1%

-32,2%

Đậu tương Mỹ

 US cent/bushel

1355,75

28,00

 2,1%

 -4,4%

Lúa mì Mỹ

US cent/bushel

 641,25

-2,25

-0,4%

-17,6%

Cà phê arabica

 US cent/lb

122,05

 1,00

 0,8%

-15,1%

Cacao Mỹ

USD/tấn

 2466,00

24,00

 1,0%

 10,3%

Đường thô

US cent/lb

 16,82

 0,04

 0,2%

-13,8%

Bạc Mỹ

 USD/ounce

20,193

 19,998

 1,6%

-33,2%

Bạch kim Mỹ

USD/ounce

 1491,60

53,30

 0,0%

 -3,1%

Palladium Mỹ

USD/ounce

738,55

15,40

 2,1%

5,0%

(T.H – Reuters)