Trong 9 tháng năm 2025 so với cùng kỳ năm trước, khối lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam chỉ tăng 0,1%, nhưng về giá trị lại giảm tới 18,5%. Điều này cho thấy thị trường xuất khẩu đang trải qua những biến động đáng kể…
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong tháng 9/2025, Việt Nam xuất khẩu 600 nghìn tấn gạo, đem về 288,4 triệu USD. Luỹ kế 9 tháng, tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo đạt 7 triệu tấn và 3,55 tỷ USD, tăng 0,1% về khối lượng nhưng giảm 18,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024. Giá gạo xuất khẩu bình quân 9 tháng năm 2025 ước đạt 509 USD/tấn, giảm 18,6% so với cùng kỳ năm 2024.
Về nguyên nhân sụt giảm giá trị xuất khẩu gạo, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam là Philippines đã tạm dừng nhập khẩu từ ngày 1/9, khiến giá trị xuất khẩu sang thị trường này trong 9 tháng năm 2025 giảm 16,4% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, Philippines vẫn là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam với thị phần chiếm 44%.
Tiếp đến, Gana và Bờ Biển Ngà là hai thị trường lớn đứng thứ hai và thứ ba, với thị phần tương ứng là 11,4% và 10,7%.
Việt Nam đã tìm thấy cơ hội ở các thị trường khác như Gana và Bờ Biển Ngà, với mức tăng trưởng lần lượt là 58,6% và 95,5%. Đặc biệt, thị trường Bangladesh ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng 164,7 lần, trong khi thị trường Malaysia giảm mạnh 55,1%. Những con số này cho thấy sự linh hoạt và khả năng thích ứng của ngành xuất khẩu gạo Việt Nam trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường mới.
Trong 7 ngày đầu của tháng 10/2025, thị trường lúa gạo trong nước tiếp tục duy trì ổn định, trong khi giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đi ngang so với tuần trước. Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), cho biết ngày 7/10, giá gạo 5% tấm xuất khẩu dao động ở mức 440 – 465 USD/tấn; gạo 100% tấm 315 – 319 USD/tấn; gạo Jasmine 495 – 499 USD/tấn. Mức giá này không thay đổi so với tuần trước đó.
Theo các thương nhân, hoạt động giao dịch vẫn chậm do nhu cầu toàn cầu yếu. Thị trường chịu tác động sau khi Philippines – một trong những quốc gia nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam gia hạn lệnh tạm dừng nhập khẩu thêm 60 ngày.
Trên thị trường khu vực, giá gạo xuất khẩu của Thái Lan tiếp tục giảm và đang ở quanh mức thấp nhất trong 9 năm. Gạo 5% tấm của Thái Lan được báo giá 345 USD/tấn, giảm 5 USD/tấn so với tuần trước và là mức thấp nhất kể từ tháng 11/2016.
Các nhà giao dịch cho rằng giá giảm do nguồn cung dồi dào trong vụ thu hoạch và nhu cầu không thay đổi. Dù vậy, Bộ Thương mại Thái Lan vẫn giữ mục tiêu xuất khẩu 7,5 triệu tấn trong năm nay.
Ngược lại, giá gạo Ấn Độ có xu hướng tăng nhẹ. Cụ thể, gạo đồ 5% tấm được chào bán 358 – 365 USD/tấn, tăng so với 354 – 362 USD/tấn của tuần trước; gạo trắng 5% tấm đạt 369 – 375 USD/tấn. Một số thương nhân tại New Delhi cho biết nhu cầu có dấu hiệu cải thiện khi người mua cho rằng giá đã chạm đáy.
Trong nước, giá lúa gạo tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long ngày 7/10 ít biến động. Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, giá lúa Đài Thơm 8 và OM 18 (tươi) cùng dao động 5.800 – 6.000 đồng/kg; IR 50404 5.000 – 5.200 đồng/kg; OM 5451 5.400 – 5.600 đồng/kg; Nàng Hoa 9 6.000 – 6.200 đồng/kg; OM 308 5.700 – 5.900 đồng/kg.
Hoạt động giao dịch gạo tại nhiều địa phương ghi nhận chậm lại. Tại Đồng Tháp, thương lái mua yếu, trả giá thấp; tại Cần Thơ và An Giang, nhiều bạn hàng tạm ngưng mua, giao dịch cầm chừng; tại Cà Mau và Vĩnh Long, thị trường trầm lắng, giá ít biến động.
Mặc dù vậy, giá gạo nguyên liệu xuất khẩu vẫn ổn định ở mức cao. Gạo OM 380 dao động 7.800 – 7.900 đồng/kg; OM 5451 và IR 504 khoảng 8.100 – 8.250 đồng/kg; CL 555 khoảng 8.150 – 8.250 đồng/kg; OM 18 dao động 8.500 – 8.600 đồng/kg. Gạo thành phẩm OM 380 ở mức 8.800 – 9.000 đồng/kg; IR 504 đạt 9.500 – 9.700 đồng/kg.
Tại các bến gạo ở An Giang, Đồng Tháp và Cần Thơ, lượng hàng về ít, kho lớn mua cầm chừng, giá vẫn vững. Gạo về bến Lấp Vò, Sa Đéc ít, giao dịch chậm.
Nhìn chung, thị trường lúa gạo trong nước vẫn ổn định, trong khi xuất khẩu chững lại do nhu cầu thế giới yếu và một số thị trường tạm ngừng nhập khẩu.