Trong 11 tháng qua, các mặt hàng chiếm tỷ trọng xuất khẩu cao nhất là thuỷ sản với 3,94 tỷ USD; tiếp đến là gạo 2,53 tỷ USD; gỗ và sản phẩm gỗ 2,27 tỷ USD; cà phê 1,54 tỷ USD. Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 5,7 triệu tấn gạo ra thị trường thế giới, lượng gạo xuất tăng 32% so với cùng kỳ năm trước nhưng giá trị lại giảm 6,6%. Giá xuất khẩu bình quân 11 tháng đầu năm ước đạt khoảng 447 USD/tấn, chỉ bằng khoảng 70% giá gạo bình quân cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, thời gian gần đây giá gạo xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng tăng do Ấn Độ và Philippine cần nhập khẩu một lượng gạo lớn.
Tính 11 tháng đầu năm, chè là mặt hàng duy nhất trong ngành hàng nông nghiệp có sự tăng trưởng cả về lượng và giá trị xuất khẩu. Trong 11 tháng, Việt Nam xuất khẩu 121.000 tấn chè, tăng 24,4% so với cùng kỳ đạt kim ngạch hơn 159 triệu USD, tăng 16,2%. Nguyên nhân là do thị hiếu người tiêu dùng thay đổi, trong khi đó nguồn cung trên thế giới lại giảm nhẹ.
Tham khảo một số mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản xuất khẩu tính từ đầu năm tới ngày 15/11/2009
Mặt hàng |
Lượng (tấn) |
Trị giá (USD) |
Hàng thuỷ sản |
|
3.678.269.705 |
Gạo |
5.470.067 |
2.441.641.360 |
Gỗ và sản phẩm gỗ |
|
2.123.403.727 |
Cà phê |
976.826 |
1.439.944.842 |
Hạt điều |
152.837 |
717.222.080 |
Sắn và các sản phẩm từ sắn |
3.039.339 |
506.330.792 |
Hạt tiêu |
122.137 |
309.082.579 |
Chè |
116.317 |
152.669.998 |