Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm khi việc Mỹ quyết định tạm miễn áp dụng lệnh cấm nhập khẩu dầu mỏ Iran đối với một số khách hàng chính của nước này đã tác động tới giá dầu trong hai ngày qua.
Kết thúc phiên này, tại thị trường New York, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao kỳ hạn giảm 0,89 USD (1,41%) xuống 62,21 USD/thùng. Trong phiên có lúc mặt hàng này giảm xuống còn 61,31 USD/thùng, mức thấp nhất kể từ ngày 16/3. Trong khi tại thị trường London, giá dầu Brent Biển Bắc giao kỳ hạn cũng hạ 1,04 USD (1,42%) xuống 72,13 USD/thùng. Giá mặt hàng này có lúc tụt xuống 71,18 USD/thùng, mức thấp nhất kể từ ngày 16/8.
Ngày 4/11 vừa qua, Mỹ đã tái áp đặt các lệnh trừng phạt đối với một số lĩnh vực chủ chốt của Iran gồm dầu mỏ, ngân hàng và vận tải, đồng thời đe dọa sẽ tiếp tục có thêm các lệnh trừng phạt nữa. Tuy nhiên, Washington ngày 5/11 đã quyết định tạm thời miễn áp dụng lệnh cấm nhập khẩu dầu mỏ Iran đối với bảy nước là Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Italy, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Ngoài ra, vùng lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc) cũng nằm trong danh sách được phép tiếp tục mua dầu từ Iran.
Giới phân tích ước tính lượng dầu xuất khẩu của Iran đã giảm khoảng 40-60% kể từ tháng Năm, khi Tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố sẽ tái áp đặt các lệnh trừng phạt lên Tehran. Tuy nhiên, việc Mỹ nới lỏng quy định như trên sẽ giúp xuất khẩu dầu mỏ của Iran tăng trở lại sau tháng 11.
Ngoài ra, các quan ngại về triển vọng nhu cầu tiêu thụ dầu mỏ thấp cũng đè nặng lên thị trường. Căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đe dọa tới triển vọng tăng trưởng của hai nền kinh tế lớn nhất thế giới, qua đó phủ bóng đen lên triển vọng nhu cầu tiêu thụ năng lượng.
Trong khi đó, nguồn cung dầu trên toàn cầu có xu hướng được đầy lên khi sản lượng dầu mỏ của Nga, Mỹ và Saudi Arabia gia tăng trong thời gian qua. Đáng chú ý, sản lượng dầu thô của Mỹ ước tăng lên bình quân 12,06 triệu thùng/ngày vào năm 2019.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng sụt giảm khi chứng khoán Mỹ và đồng USD mạnh lên trước khi kết quả cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ Quốc hội Mỹ được công bố, làm giảm sức hấp dẫn của vàng.
Vàng giao ngay có lúc hạ 0,4% xuống 1.226,46 USD/ounce; vàng giao sau hạ 0,49% (6 USD) xuống 1.226,3 USD/ ounce.
Cuộc bầu cử giữa kỳ Quốc hội Mỹ được coi là một “bài sát hạch” lớn đầu tiên đối với chính sách cắt giảm thuế mạnh tay và các chính sách thương mại của Tổng thống Donald Trump. Các nhà phân tích thuộc Standard Chartered nhận định cuộc bầu cử như thế này có thể có vai trò quan trọng đối với vàng nếu chúng làm giá đồng USD chững lại, hoặc làm gia tăng tâm lý bất an trong giới đầu tư bán lẻ Mỹ vào vàng, một khi ông Trump mất đi sự ủng hộ. Các phân tích trên tỏ ý tin rằng giá kim loại quý này nhiều khả năng sẽ mở rộng đà tăng lên 1.300 USD/ ounce, nhất là khi đồng bạc xanh yếu đi sau các cuộc bầu cử tại Mỹ.
Thị trường hiện cũng đang chờ đợi diễn biến cuộc họp chính sách kéo dài hai ngày của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), bắt đầu vào hôm nay (7/11), nhằm tìm kiếm manh mối về định hướng chính sách tiền tệ Mỹ.
Trong khi đó, lượng vàng do quỹ trao đổi vàng lớn nhất thế giới SPDR Gold Trust nắm giữ trong phiên 5/11 giảm phiên thứ hai liên tiếp xuống 757,29 tấn.
Giá bạc phiên này giảm 0,7% xuống 14,53 USD/ ounce, trong lúc giá palladium hạ 1,7% xuống 1.113,47 USD/ ounce. Còn giá bạch kim tăng 0,5% lên 868,4 USD/ ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm khi thị trường chờ đợi kết quả của cuộc bầu cử giữa kỳ của Mỹ và cuộc họp chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ vào cuối tuần này trong khi kinh tế Trung Quốc chậm lại gây giảm nhu cầu tiêu thụ.
Đồng kỳ hạn 3 tháng tại LME đóng cửa giảm 0,5% xuống còn 6.158 USD/tấn.
Giá quặng sắt Trung Quốc chốt phiên giảm nhẹ sau khi tăng vào phiên sáng do lo ngại nguồn cung thắt chặt hơn sau khi BHP Billiton tạm ngừng hoạt động chuyên chở quặng sắt bằng đường sắt ở miền tây Australia đã được bù lại bởi giá thép cuộn giảm.
Quặng sắt giao tháng 1/2019 tại Sở Giao dịch Hàng hóa Đại Liên chốt phiên giảm 0,1% xuống mức 510 CNY(74 USD)/tấn sau khi tăng 1,7% vào giữa ngày.
BHP không cho biết thời gian ngừng hoạt động đường sắt là bao lâu, nhưng các nhà phân tích của ANZ cho biết công ty khai thác mỏ hiện còn nhiều dự trữ tại cảng có thể sử dụng.
Dự trữ quặng sắt tại các cảng chính của Trung Quốc đứng ở mức 141,65 triệu tấn vào ngày 2/11/2018, giảm gần 13% so với mức cao kỷ lục vào đầu tháng 6, theo SteelHome.
Giá thép cây kỳ hạn tháng 1/2019 tại Thượng Hải giảm 1,9% xuống còn 3.962 CNY/tấn, chạm mức thấp gần một tháng là 3.953 CNY/tấn vào đầu phiên.
Trên thị trường nông sản, giá cao su kỳ hạn tại Tokyo tiếp tục giảm sâu quanh mức thấp nhất 26 tháng do lo ngại nhu cầu tiêu thụ yếu trong bối cảnh căng thẳng thương mại Mỹ-Trung gia tăng. Giá hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 4/2019 giảm 1,2 JPY xuống còn 159,5 JPY (1,41 USD)/kg, đánh dấu mức giá đóng cửa đầu tiên dưới 160 JPY kể từ ngày 16/9/2016.
Giá cao su TSR 20 kỳ hạn giao tháng 5/2019 giảm 0,7% chốt phiên đạt 145,4 JPY/kg. Giá cao su kỳ hạn tháng 1/2019 tại Thượng Hải tăng 45 CNY đạt 11.235 CNY(1.623,34 USD)/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất 3 tháng trong ngày trước đó. Thị trường cao su SICOM của Singapore đóng cửa nghỉ lễ.
Giá hàng hóa thế giới
Mặt hàng
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
62,21
|
-0,89
|
-1,41%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
72,13
|
-1,04
|
-1,42%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
49.400,00
|
-250,00
|
-0,50%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,53
|
-0,03
|
-0,79%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
168,64
|
-0,76
|
-0,45%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
219,00
|
+0,17
|
+0,08%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
|
|
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
65.420,00
|
-230,00
|
-0,35%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.229,90
|
-3,60
|
-0,29%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.458,00
|
-7,00
|
-0,16%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
14,57
|
+0,07
|
+0,45%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
53,10
|
0,00
|
0,00%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
874,93
|
+5,05
|
+0,58%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.119,50
|
+1,56
|
+0,14%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
275,10
|
+1,85
|
+0,68%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.158,00
|
-33,00
|
-0,53%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.950,50
|
-24,50
|
-1,24%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.501,00
|
-19,00
|
-0,75%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
19.050,00
|
-25,00
|
-0,13%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
372,50
|
-0,75
|
-0,20%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
512,50
|
+0,50
|
+0,10%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
294,00
|
+0,25
|
+0,09%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
10,64
|
-0,06
|
-0,56%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
886,00
|
+1,75
|
+0,20%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
312,40
|
+1,00
|
+0,32%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
27,93
|
+0,03
|
+0,11%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
482,80
|
+1,10
|
+0,23%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.388,00
|
+53,00
|
+2,27%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
113,25
|
-3,85
|
-3,29%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,96
|
-0,19
|
-1,44%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
136,60
|
-1,30
|
-0,94%
|
Bông
|
US cent/lb
|
77,65
|
+0,22
|
+0,28%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
350,30
|
+5,90
|
+1,71%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
160,20
|
+0,70
|
+0,44%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,30
|
-0,01
|
-1,07%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg