Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm trở lại sau khi tăng hơn 1% trong phiên trước đó.
Tại New York, giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 1/2018 giảm 0,85 USD xuống 57,14 USD/thùng vào cuối phiên giao dịch ngày 12/12. Trong khi tại London, dầu Brent Biển Bắc giao tháng 2/2018 giảm 1,35 USD xuống 63,34 USD/thùng.
Theo các nhà phân tích, giá dầu giảm là do trong phiên trước giá dầu tăng khiến giới kinh doanh tận dụng cơ hội bán ra kiếm lời trước thông tin mới nhất cho hay hệ thống đường ống dẫn dầu từ vùng mỏ ngoài khơi Biển Bắc sẽ phải đóng cửa trong “một vài tuần” để sửa chữa sau khi bị phát hiện có vết nứt. Công suất dẫn dầu của đường ống dẫn dầu từ vùng mỏ Forties tới một nhà máy xử lý dầu ở Scotland hiện vào khoảng 450.000 thùng/ngày.
Về thông tin liên quan, Malaysia đồng ý cắt giảm sản lượng dầu mỏ cho đến năm 2018 để giúp ổn định giá dầu , phù hợp với cam kết của họ để giảm nguồn cung toàn cầu như một phần của thỏa thuận giữa OPEC và các nhà sản xuất dầu mỏ toàn cầu khác.
OPEC và các nhà sản xuất ngoài OPEC dẫn đầu là Nga đồng ý gia hạn cắt giảm sản lượng dầu mỏ đến hết năm 2018 do họ cố gắng xóa bỏ lượng dầu thô dư thừa trên toàn cầu, trong khi vẫn báo hiệu khả năng sớm thoát khỏi thỏa thuận này nếu thị trường quá nóng.
OPEC và Nga cùng nhau chiếm hơn 40% lượng dầu toàn cầu.
Abdul Rahman Dahlan, một Bộ trưởng cho biết “việc gia hạn điều chỉnh sản lượng là cần thiết để giảm tồn kho dầu xuống mức bình thường sẽ cung cấp sự ổn định và bền vững trong giá cả, cũng như nhu cầu và nguồn cung”.
Malaysia qua công ty dầu khí quốc doanh Petroliam Nasional Berhad đã thông báo năm ngoái rằng họ sẽ cắt giảm sản lượng dầu mỏ lên tới 20.000 thùng/ngày như một phần cam kết của Malaysia để giảm nguồn cung theo một thỏa thuận giữa OPEC và các nhà sản xuất ngoài tổ chức này. Abdul Rahman cho biết “Malaysia không quan tâm tới giá dầu đạt 100 USD/thùng hay hơn như trước đó”. “Malaysia thích giá dầu ổn định tại một mức hợp lý do giá biến động là tồi tệ cho dự báo doanh thu quốc gia”.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm xuống mức thấp nhất trong gần 5 tháng do đồn đoán gia tăng về khả năng Mỹ sẽ nâng lãi suất trong tuần này.
Giá vàng giao ngay có thời điểm giảm xuống 1.235,92 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 20/7, trước khi nhích lên 1.240,64 USD/ounce; vàng giao tháng 2/2018 giảm 5,2 USD (0,4%) xuống 1.241,70 USD/ounce.
Thị trường đang chờ đợi kết quả cuộc họp kéo dài hai ngày 13-14/2017 của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Fed, Ngân hàng trung ương Mỹ. Giá vàng khá nhạy cảm với các đợt nâng lãi suất và chính sách tiền tệ của Mỹ, do lãi suất tăng sẽ làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng, đồng thời làm đồng USD tăng giá khiến kim loại quý này trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua nắm giữ các đồng tiền khác.
Bên cạnh đó, chiến lược gia Josh Graves, thuộc RJO Futures tại Chicago, cho rằng đà tăng của các chỉ số chứng khoán và giá trị các đồng tiền ảo như bitcoin đi lên đã làm giảm sức hấp dẫn của vàng và đẩy giá kim loại quý này xuống mức thấp. Thống kê cho thấy từ giữa tháng Mười đến đầu tháng 12, giá vàng dao động trong biên độ 1.265-1.300 USD/ounce.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,3% xuống 15,66 USD/ounce. Còn giá bạch kim giảm 0,9% xuống 876,60 USD/ounce, phiên giảm thứ tám liên tiếp, sau khi có thời điểm rớt xuống 868,80 USD/ounce - mức thấp nhất kể từ tháng 2/2016.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica và đường đều giảm do đồng real Brazil yếu đi.
Đường thô giao tháng 3 giá giảm 0,18 US cent tương đương 1,3% xuống 13,77 US cent/lb, đường trắng giao cùng kỳ hạn giảm 3,6 USD tương đương 1% xuống 361,90 USD/tấn.
Cà phê arabica giao tháng 3 giảm 1,55 US cent tương đương 1,3% xuống 1,1845 USD/lb, trong khi robusta giao tháng 1 giảm 40 USD tương đuông 2,3% xuống 1.688 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/-(%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

57,14

-0,85

-1,21%

Dầu Brent

USD/thùng

63,34

-1,30

-1,74%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

42.270,00

-1.100,00

-2,54%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,71

+0,03

+1,01%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

170,21

+0,45

+0,27%

Dầu đốt

US cent/gallon

194,05

+0,69

+0,36%

Dầu khí

USD/tấn

571,25

-0,50

-0,09%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

57.310,00

-1.210,00

-2,07%

Vàng New York

USD/ounce

1.244,70

+3,00

+0,24%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.522,00

-7,00

-0,15%

Bạc New York

USD/ounce

15,73

+0,06

+0,36%

Bạc TOCOM

JPY/g

57,80

-0,10

-0,17%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

878,70

-1,90

-0,22%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

1.014,36

-0,61

-0,06%

Đồng New York

US cent/lb

301,40

-0,90

-0,30%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

6.663,00

-7,00

-0,10%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

2.016,00

-6,00

-0,30%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

3.157,00

+32,00

+1,02%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

19.165,00

-235,00

-1,21%

Ngô

US cent/bushel

348,50

+0,75

+0,22%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

412,50

+1,75

+0,43%

Lúa mạch

US cent/bushel

242,75

-0,75

-0,31%

Gạo thô

USD/cwt

12,23

-0,04

-0,29%

Đậu tương

US cent/bushel

978,75

+3,00

+0,31%

Khô đậu tương

USD/tấn

329,60

+0,70

+0,21%

Dầu đậu tương

US cent/lb

33,53

-0,07

-0,21%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

500,30

+0,20

+0,04%

Cacao Mỹ

USD/tấn

1.867,00

-45,00

-2,35%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

118,45

-1,55

-1,29%

Đường thô

US cent/lb

13,77

-0,18

-1,29%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

149,95

-1,05

-0,70%

Bông

US cent/lb

72,91

-0,09

-0,12%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

423,50

-6,40

-1,49%

Cao su TOCOM

JPY/kg

203,60

-0,40

-0,20%

Ethanol CME

USD/gallon

1,30

-0,02

-1,60%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg