Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng do thiếu hụt nguồn dầu từ nước Anh, bất chấp các dự đoán về việc thị trường dầu thế giới sẽ dư cung vào đầu năm tới.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 1/2018 trên sàn New York tăng 0,8% (0,44 USD) lên 57,04 USD/thùng; dầu Brent Biển Bắc giao tháng 2/2018 trên sàn London tăng 1,4% lên chốt phiên ở mức 63,31 USD/thùng.
John Kilduff, một đối tác thuộc Again Capital Llc tại New York, cho biết hiện không thể tảng lờ tác động từ việc hệ thống đường ống dẫn dầu từ vùng mỏ ngoài khơi Biển Bắc của nước Anh tiếp tục phải đóng cửa trong “một vài tuần” để sửa chữa sau khi bị phát hiện có vết nứt. Bởi điều này đồng nghĩa với việc thị trường đang và sẽ tiếp tục mất đi một khối lượng đáng kể “vàng đen”.
Báo cáo hàng tháng mới nhất của IEA về thị trường dầu cho rằng tổng mức tăng về nguồn cung dầu có thể vượt mức tăng về nhu cầu, song nếu tính trong cả năm 2018, thị trường dầu mỏ có thể tiến gần đến trạng thái cân bằng.
IEA dự đoán thị trường dầu sẽ dôi dư 200.000 thùng dầu/ngày trong nửa đầu năm tới trước khi có thể đạt trạng thái gần cân bằng. Cũng theo IEA, sản lượng khai thác dầu tại Mỹ trong năm tới nhiều khả năng tăng thêm 870.000 thùng dầu/ngày, cao hơn mức dự báo tăng 790.000 thùng dầu/ngày đưa ra hồi tháng trước.
Dự báo của IEA được đưa ra sau khi OPEC một ngày trước đó dự đoán cung-cầu trên thị trường dầu mỏ thế giới sẽ cân bằng vào cuối năm 2018, nhờ nhu cầu nhích lên, đặc biệt là từ lĩnh vực giao thông vận tải.
Theo OPEC, nhu cầu tiêu thụ “vàng đen” sẽ tăng thêm 1,51 triệu thùng/ngày vào năm tới (cao hơn mức tăng ước tính 1,26 triệu thùng/ngày của năm nay) lên 98,45 triệu thùng/ngày.
Ngành giao thông vận tải được cho là sẽ thúc đẩy mạnh mẽ nhu cầu tiêu thụ dầu mỏ bên cạnh việc các nền kinh tế tăng trưởng mạnh hơn hỗ trợ nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu trong lĩnh vực xây dựng và công nghiệp.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm giữa bối cảnh đồng USD tăng giá sau khi số liệu tích cực về doanh số bán lẻ ở Mỹ được công bố.
Tại New York (Mỹ), giá vàng giao ngay phiên này giảm 0,03% xuống 1.255,77 USD/ounce, sau khi có thời điểm tăng lên 1.259,11 USD/ounce, chạm mức cao của một tuần. Trong lúc giá vàng Mỹ giao tháng 2/2018 được giao dịch ở mức 1.257,10 USD/ounce.
Trong tháng 11/2017, lĩnh vực bán lẻ của Mỹ tăng cao hơn dự kiến, nhờ doanh thu tăng cao trong đầu mùa mua sắm cuối năm. Nhà phân tích Naeem Aslam, thuộc Think Markets UK, cho biết lĩnh vực bán lẻ của Mỹ chưa từng chứng kiến mức tăng mạnh như thế kể từ năm 2012.
Theo các chuyên gia, số liệu tích cực kể trên đã thúc đẩy đồng USD tăng giá và khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua nắm giữ các đồng tiền khác. Bên cạnh đó, quyết định nâng lãi suất mới đây của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cũng có tác động đến thị trường vàng. Giá vàng khá nhạy cảm với các đợt nâng lãi suất và chính sách tiền tệ của Mỹ, do lãi suất tăng sẽ làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng.
Về những kim loại quý khác, giá bạch kim giảm 0,7% xuống 878,80 USD/ounce, sau khi có lúc vọt lên 891,20 USD/ounce, mức cao của sáu phiên. Giá bạc giảm 0,8% xuống 15,93 USD/ounce, sau khi có thời điểm rơi xuống 15,59 USD/ounce - mức thấp nhất trong 5 tháng.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê hồi phục từ mức thấp nhất nhiều tháng.
Robusta giao tháng 3 giá tăng 27 USD tương đương 1,6% lên 1.740 USD/tấn, tăng khoảng 4% từ mức thấp nhất một năm rưỡi của phiên trrước, trong khi đó arabica tăng 0,2 US cent tương đương 0,2% lên 1,203 USD/lb, từ mức thấp nhất 5 tháng rưỡi của phiên trước.
Giá tăng là do hoạt động mua bù. Dự trữ cà phê tại các cảng châu Âu tháng 10 giảm 4%, theo số liệu của Liên đoàn Cà phê châu Âu.
Về thông tin liên quan, Hiệp hội Xuất khẩu cà phê Brazil (Cecafe) cho biết, trong các tháng 1-11/2017, nước này đã xuất khẩu 27,7 triệu bao cà phê (loại 60 kg/bao), giảm 10,7% so với cùng kỳ năm 2016. Kim ngạch xuất khẩu cà phê của quốc gia Nam Mỹ này trong các tháng 1-11/2017 đạt hơn 4,7 tỷ USD, giảm 3,1% so với cùng kỳ năm trước.
Từ đầu năm tới nay, Mỹ tiếp tục là thị trường tiêu thụ số một cà phê của Brasilia, chiếm 19,9% tổng lượng xuất khẩu cà phê của quốc gia Nam Mỹ này. Trong khi đó, nhập khẩu mặt hàng này của Đức, Italy, Nhật Bản và Bỉ chiếm lần lượt 17,5%, 9,5%, 6,9% và 5,8%.
Đường giảm giá trong phiên vừa qua, với đường thô giao tháng 3 giảm 0,08 US cent tương đương 0,6% xuống 13,77 US cent/lb, trong khi đường trắng giao cùng kỳ hạn giảm 2,4 USD tương đương 0,7% xuống 361,50 USD/tấn.
Đồng real Brazil yếu đi so với USD thúc đầy hoạt động bán ra từ nước sản xuất đường lớn nhất thế giới này. Trong khi đó, dự báo cung đường toàn cầu tiếp tục dư thừa cũng góp phần gây áp lực giảm giá. Sản lượng đường thế giới dự báo tăng 8% lên kỷ lục 192 triệu tấn trong năm 2017, theo nhận định của Informa's Agribusiness Intelligence.
Giá hàng hóa thế giới

 

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/-(%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

57,04

+0,08

+0,44%

Dầu Brent

USD/thùng

63,31

+0,90

+1,4%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

41.460,00

+290,00

+0,70%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,68

-0,04

-1,40%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

167,97

+3,30

+2,00%

Dầu đốt

US cent/gallon

190,66

+0,22

+0,12%

Dầu khí

USD/tấn

561,25

-1,50

-0,27%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

56.410,00

+40,00

+0,07%

Vàng New York

USD/ounce

1.256,40

-7,80

-0,62%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.529,00

-17,00

-0,37%

Bạc New York

USD/ounce

15,91

+0,04

+0,23%

Bạc TOCOM

JPY/g

58,20

-0,50

-0,85%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

879,92

-7,77

-0,88%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

1.033,36

+14,37

+1,41%

Đồng New York

US cent/lb

308,00

+2,65

+0,87%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

6.729,00

+66,00

+0,99%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

2.009,00

-7,00

-0,35%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

3.153,00

-4,00

-0,13%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

18.800,00

-365,00

-1,90%

Ngô

US cent/bushel

349,50

+0,50

+0,14%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

417,75

+1,00

+0,24%

Lúa mạch

US cent/bushel

252,75

+3,75

+1,51%

Gạo thô

USD/cwt

11,71

-0,06

-0,51%

Đậu tương

US cent/bushel

981,50

-9,00

-0,91%

Khô đậu tương

USD/tấn

327,10

-3,80

-1,15%

Dầu đậu tương

US cent/lb

33,30

-0,10

-0,30%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

504,50

-2,40

-0,47%

Cacao Mỹ

USD/tấn

1.893,00

+5,00

+0,26%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

120,35

+0,25

+0,21%

Đường thô

US cent/lb

13,90

+0,05

+0,36%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

146,45

-2,00

-1,35%

Bông

US cent/lb

74,81

+0,68

+0,92%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

430,30

+9,20

+2,18%

Cao su TOCOM

JPY/kg

205,90

+0,60

+0,29%

Ethanol CME

USD/gallon

1,29

-0,01

-0,77%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg