Trên thị trường năng lượng,giá dầu quay đầu giảm trở lại sau khi số liệu mới cho thấy dự trữ dầu thô ở Mỹ vẫn ở gần mức cao kỷ lục mặc dù giảm trong tuần vừa qua.
Kết thúc phiên giao dịch, tại thị trường New York, giá dầu thô ngọt (WTI) giao tháng 4/2017 giảm 11 US cent xuống 48,75 USD/thùng; trong khi đó tại London, giá dầu Brent giao tháng 5/2017 giảm 7 US cent xuống 51,74 USD/thùng. Tuần trước, giá dầu giao kỳ hạn đã mất hơn 8%, mức giảm sâu nhất kể từ đầu tháng 11/2016, do dự trữ dầu thô của Mỹ leo lên mức cao kỷ lục.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết dự trữ dầu thô của Mỹ trong tuần kết thúc vào ngày 10/3 đã giảm hơn 200.000 thùng, xuống 528,2 triệu thùng, tuy nhiên vẫn tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước.
Các chuyên gia cho rằng dự trữ dầu thô ở Mỹ tăng cao đã làm giảm hiệu quả cắt giảm sản lượng của các nước thành viên trong Hiệp hội Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC). Điều này làm các nhà đầu tư lo ngại về khả năng tình trạng dư dôi nguồn cung trên thị trường năng lượng thế giới sẽ còn kéo dài.
Theo số liệu từ Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), dự trữ dầu thô của Mỹ giảm 237.000 thùng trong tuần tính đến ngày 10/3, ghi nhận tuần giảm đầu tiên sau 9 tuần tăng liên tiếp. Các chuyên gia nhận định các số liệu cho thấy tình trạng dư cung đang được thu hẹp phần nào hỗ trợ giá “vàng đen” trong phiên này.
Các nhà đầu tư cũng thúc đẩy hoạt động mua vào dầu mỏ, sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) ra quyết định tiếp tục nâng lãi suất, song không tiết lộ về lộ trình nâng lãi suất tiếp theo. Sau hai ngày họp từ 14-15/3, Fed đã tăng lãi suất cơ bản thêm 0,25 điểm phần trăm và đây là lần tăng thứ ba kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Một số yếu tố khác tác động tích cực đến thị trường dầu mỏ là dự báo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) về khả năng cầu sẽ vượt cung trong nửa đầu năm nay và BMI Research cho biết sự tuân thủ của các nước thành viên Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) đối với thỏa thuận cắt giảm sản lượng có thể mạnh mẽ hơn trong tháng Ba so với hai tháng trước đó.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng phiên thứ 2 liên tiếp, lên mức cao nhất trong vòng hơn 1 tuần trong bối cảnh đồng USD rơi xuống mức thấp nhất trong 5 tuần.
Giá vàng giao ngay có thời điểm tăng lên 1.233,13 USD/ounce, mức cao nhất kể từ ngày 6/3, trong khi đó, giá vàng giao tháng 4/2017 tăng 2,2% và đóng cửa ở mức 1.227,10 USD/ounce.
Một yếu tố có thể tác động đến giá vàng là kết quả bầu cử tại Hà Lan. Trong cuộc bầu cử Hạ viện ngày 15/3, đảng “Nhân dân vì tự do và dân chủ” (VVD) của Thủ tướng Hà Lan Mark Rutte đã giành thắng lợi và vượt qua đảng “Vì tự do” (PVV) của nhân vật cực hữu, dân túy và theo chủ nghĩa bản địa bài ngoại Geert Wilders.
Mặc dù Hà Lan chỉ có dân số 17 triệu, tương đương khoảng 1/4 so với dân số Pháp và 1/5 so với Đức; cuộc bầu cử ở Hà Lan thu hút sự quan tâm đặc biệt, bởi đây được coi là thước đo mức độ ủng hộ các chính đảng và các nhân vật có quan điểm cực hữu ở cả châu Âu.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng tăng cũng bởi USD giảm. Đồng tăng phiên thứ 5 liên tiếp do việc 3 mỏ đồng lớn nhất thế giới ngừng sản xuất gây lo ngại về nguồn cung và USD giảm giá khiến đồng tính theo USD trở nên rẻ hơn đối với những nhà đầu tư sử dụng các loại tiền khác.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica tăng do đồng real giảm so với USD. Arabica giao tháng 5 giá tăng 0,55 US cent hay 0,4% lên 1,4145 USD/lb, trong khi robusta giao cùng kỳ hạn cũng tăng 3 USD hay 0,1% lên 2.183 USD/tấn.
Cơ quan cung ứng thực phẩm Brazil Conab sẽ tổ chức cuộc đấu giá để cho phép các nhà chế biến cà phê đấu thầu mua cà phê robussta trong nước.
Trên thị trường đường, giá biến động trái chiều, đường thô tăng trong khi đường trắng giảm giá. Đường thô giao tháng 5 giá tăng 0,02 US cent hay 0,1% lên 18,25 US cent/lb, trong phiên có lúc giá đạt 18,53 US cent. Đường trắng giao cùng kỳ hạn trái lại giảm 3,5 USD hay 0,7% xuống 510,30 USD/tấn.
Đồng real mạnh lên cũng hỗ trợ giá đường thô, bởi điều đó khiến cho các nhà sản xuất giảm tỷ lệ mía ép thành đường và tăng tỷ lệ mía dùng trong sản xuất ethanol.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
48,75
|
-0,11
|
-0,23%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
51,74
|
-0,07
|
-0,10%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
35.800,00
|
-130,00
|
-0,36%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,91
|
+0,01
|
+0,38%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
159,12
|
-0,30
|
-0,19%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
150,44
|
+0,01
|
+0,01%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
456,25
|
+1,25
|
+0,27%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
45.480,00
|
-160,00
|
-0,35%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.227,10
|
+1,20
|
+0,10%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.455,00
|
+4,00
|
+0,09%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,30
|
-0,03
|
-0,17%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
63,00
|
-0,30
|
-0,47%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
955,15
|
-2,77
|
-0,29%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
766,01
|
-0,79
|
-0,10%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
267,10
|
-0,65
|
-0,24%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
5.909,00
|
+45,00
|
+0,77%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.900,00
|
+13,00
|
+0,69%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.829,00
|
+21,00
|
+0,75%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
20.150,00
|
+275,00
|
+1,38%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
365,75
|
-0,25
|
-0,07%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
435,75
|
-0,25
|
-0,06%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
250,75
|
+1,50
|
+0,60%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
9,87
|
+0,04
|
+0,36%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
999,00
|
-2,50
|
-0,25%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
327,90
|
-1,40
|
-0,43%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
32,39
|
+0,13
|
+0,40%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
505,10
|
-0,70
|
-0,14%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.027,00
|
-21,00
|
-1,03%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
141,45
|
+0,55
|
+0,39%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
18,25
|
+0,02
|
+0,11%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
177,50
|
-0,60
|
-0,34%
|
Bông
|
US cent/lb
|
78,05
|
-0,12
|
-0,15%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
363,50
|
-2,00
|
-0,55%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
269,20
|
+5,30
|
+2,01%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,56
|
+0,02
|
+1,30%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg