Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục tăng. Dầu Brent vượt ngưỡng 50 USD/tấn trong bối cảnh lượng dầu lưu kho giảm và hy vọng OPEC đóng băng sản lượng.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 9/2016 trên sàn New York tăng 1,43 USD, tương ứng 3,1%, lên 48,22 USD/thùng, ghi nhận phiên tăng thứ 6 liên tiếp. Dầu Brent giao tháng 10/2016 trên sàn London tăng 1,04 USD, tương đương 3,1%, lên 50,89 USD/thùng. Giá dầu Brent đã tăng 16% trong 6 phiên vừa qua.
Đợt tăng giá mới nhất này chủ yếu nhờ việc nối lại các cuộc thảo luận về đóng băng sản lượng giữa OPEC và các nước ngoại khối cũng như số liệu cho thấy lượng dầu và xăng lưu kho của Mỹ giảm, xoa dịu lo ngại về tình trạng thừa cung toàn cầu.
14 nước thành viên OPEC dự định nhóm họp vào cuối tháng 9 tại Algeria. Các nhà lãnh đạo Arab Saudi và Nga đã bày tỏ mói quan tâm đến việc thảo luận thỏa thuận đóng băng sản lượng trong phiên họp này.
Cùng với hy vọng từ OPEC, số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) công bố hôm thứ Tư 17/8 cho thấy, lượng dầu lưu kho của Mỹ trong tuần kết thúc vào 12/8 giảm 2,7 triệu thùng và nguồn cung xăng giảm 2,2 triệu thùng.
Giá dầu cũng được hỗ trợ khi USD suy yếu. Chỉ số Đôla Wall Street Journal, theo dõi USD với 16 đồng tiền trong giỏ tiền tệ, giảm 0,5%.
Mặc dù vẫn thấp hơn một nửa so với mức trên 100 USD/tấn năm 2014, giá dầu nay đã tăng 22% kể từ thời điểm rơi xuống dưới 40 USD/thùng ngày 2/8 và tăng hơn 80% so với 6 tháng trước khi xuống thấp nhất một thập kỷ ở dưới 30 USD/thùng.
Tiêu thụ dầu thô của Trung Quốc dự báo sẽ tăng 6,5% lên 583 triệu tấn trong năm 2016; tiêu thụ dầu lọc dự báo sẽ vào khoảng 316 triệu tấn, và tiêu thụ dầu diesel sẽ giảm 5,5% xuống 164 triệu tấn.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng do USD suy yếu sau khi biên bản họp Fed cho thấy các nhà hoạch định chính sách có ý kiến khác nhau về nâng lãi suất.
Theo biên bản họp chính sách tháng 7 của Fed, các thành viên Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) nói chung tỏ ra lạc quan về kinh tế và thị trường lao động của Mỹ, nhưng nhiều nhà hoạch định chính sách cho rằng bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy sự sụt giảm về số việc làm trong tương lai sẽ ảnh hưởng xấu đến việc nâng lãi suất trong ngắn hạn.
Giá vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.351,98 USD/ounce, ghi nhận phiên tăng thứ 4 liên tiếp. Giá vàng giao tháng 12/2016 tăng 0,6% lên 1.357,2 USD/ounce.
Các báo cáo cho thấy số đơn xin trợ cấp thất nghiệp của Mỹ tuần qua giảm xuống mức thấp hơn dự đoán trong khi hoạt động sản xuất tại vùng Mid-Atlantic tăng nhẹ trong tháng này.
Chủ tịch Fed New York William Dudley cho biết, tăng trưởng việc làm tại Mỹ tiếp tục cải thiện và mức lương tăng là 2 dấu hiệu tích cực về thị trường lao động, giúp ông tin tưởng hơn vào khả năng nâng lãi suất trước khi năm nay kết thúc.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,6% lên 19,79 USD/ounce, giá bạch kim tăng 1,6% lên 1.130,50 USD/ounce và giá palladium tăng 3% lên 712,70 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, cà phê đồng loạt đảo chiều tăng. Tại London, Robusta tăng 36-41 USD/tấn, chấm dứt mạch giảm 7 phiên liên tiếp. Trong khi đó tại New York, Arabica tăng 3,1-3,35 cent/lb.
Mức trừ lùi cà phê Robusta châu Á tại châu  tuần này tăng trong khi giao dịch cà phê tại Việt Nam chậm lại khi lượng cà phê tồn trữ giảm.
Hoạt động mua bán cà phê tại Việt Nam - nước sản xuất Robusta lớn nhất thế giới - tháng này chậm lại sau khi xuất khẩu cà phê từ tháng 10/2015 đến tháng 7/2016 tăng 1/3 so với cùng kỳ năm ngoái lên 1,46 triệu tấn (tương ứng 24,34 triệu bao).
Sản lượng cà phê của Việt Nam niên vụ 2016-2017 dự báo giảm do tác động của hạn hán hồi đầu năm 2016 và nhiều nông dân chuyển sang trồng hồ tiêu.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
48,22
|
+1,43
|
+3,1%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
50,89
|
1,04
|
+3,1%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
30.550,00
|
+830,00
|
+2,79%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,66
|
-0,01
|
-0,37%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
148,69
|
-0,28
|
-0,19%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
152,33
|
-0,27
|
-0,18%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
445,75
|
+3,50
|
+0,79%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
43.300,00
|
+890,00
|
+2,10%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.351,90
|
+5,30
|
+0,39%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.328,00
|
+6,00
|
+0,14%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
19,63
|
-0,11
|
-0,58%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
63,00
|
-0,30
|
-0,47%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.121,90
|
-8,85
|
-0,78%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
707,59
|
-4,62
|
-0,65%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
217,40
|
-0,45
|
-0,21%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
4.809,00
|
+35,00
|
+0,73%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.683,00
|
-11,00
|
-0,65%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.295,50
|
+22,50
|
+0,99%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
18.390,00
|
+40,00
|
+0,22%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
341,75
|
-0,25
|
-0,07%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
442,25
|
-2,00
|
-0,45%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
184,00
|
+0,25
|
+0,14%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
10,29
|
-0,03
|
-0,29%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.000,75
|
-13,75
|
-1,36%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
326,10
|
-5,10
|
-1,54%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
34,40
|
-0,21
|
-0,61%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
468,50
|
0,00
|
0,00%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.113,00
|
+34,00
|
+1,10%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
141,45
|
+3,35
|
+2,43%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,98
|
+0,26
|
+1,32%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
176,50
|
+0,95
|
+0,54%
|
Bông
|
US cent/lb
|
69,54
|
+0,53
|
+0,77%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
320,30
|
-2,70
|
-0,84%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
156,30
|
+1,10
|
+0,71%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,45
|
+0,02
|
+1,68%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg