Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do lo ngại nguồn cung toàn cầu dư thừa nhiều
Tại thị trường New York, giá dầu ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 4/2017 giảm 0,88 USD xuống 47,34 USD/thùng; tại London giá dầu Brent giao tháng 5/2017 cũng giảm 0,66 USD xuống 50,96 USD/tại London.
Cho tới nay, thỏa thuận cắt giảm sản lượng của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) vẫn chưa đạt được hiệu quả như mong muốn do mức độ tuân thủ của các bên tham gia chưa thật đồng đều và do một số nhà sản xuất dầu mỏ lớn khác, đặc biệt là Mỹ, tiếp tục gia tăng sản lượng.
Jeremy Baker, chiến lược gia từ Vontobel Asset Management, cho biết nhu cầu dầu mỏ toàn cầu năm 2017 dự kiến sẽ vẫn mạnh và cao hơn 0,2-0,4 triệu thùng/ngày so với mức tăng trưởng trung bình trong dài hạn là 1,2 triệu thùng/ngày.
Các nhà đầu tư đang chờ đợi Mỹ công bố số liệu hàng tuần về kho dự dữ dầu mỏ của nước này, mà theo dự đoán sẽ tăng khoảng 2,6 triệu thùng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tiếp tục tăng lên mức cao nhất trong vòng 3 tuần sau khi ứng cử viên tổng thống Pháp Emmanuel Macron, người theo chủ nghĩa ôn hòa, đã có cuộc tranh luận khá thuyết phục trước các ứng viên còn lại. Bên cạnh đó, những đồn đoán về khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ nâng lãi suất trong ngắn hạn đang dịu xuống đã khiến đồng USD suy yếu, qua đó tạo lợi thế cho vàng.
Giá vàng giao ngay tăng 0,9%, lên 1.244,48 USD/ounce, gần sát mức cao nhất kể từ ngày 2/3 là 1.247,60 USD/ounce vừa lập được phiên trước; giá vàng giao tháng 4/2017 cũng tăng 1%,lên 1.246,50 USD/ounce.
Sau khi Fed quyết định nâng lãi suất vào tuần trước, giá vàng đi xuống. Tuy nhiên, ngân hàng này không tiết lộ bất kỳ kế hoạch đẩy nhanh tốc độ thắt chặt chính sách tiền tệ nào như các nhà đầu tư đồn đoán trước đó. Điều này đã khiến đồng USD mất giá và giúp vàng đảo chiều đi lên.
Giá vàng luôn nhạy cảm với các động thái điều chỉnh lãi suất của Mỹ, bởi lãi suất tăng sẽ giúp đồng USD mạnh lên song lại khiến sức hấp dẫn của các tài sản an toàn như vàng giảm đáng kể.
Chỉ số đồng USD - thước đo giá trị đồng bạc xanh so với 6 đồng tiền quốc tế chủ chốt - đã giảm xuống mức “đáy” của sáu tuần, trong khi lãi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm cũng như các thị trường cổ phiếu Âu - Mỹ đồng loạt đi xuống cũng góp phần hậu thuẫn cho giá vàng.
Đến nay chưa có thông tin chi tiết về các chính sách của tân Tổng thống Mỹ Donald Trump cũng khiến các kênh đầu tư an toàn như vàng trở nên hấp dẫn hơn. Kết quả thăm dò sau cuộc tranh luận trực tiếp trên truyền hình giữa 5 ứng cử viên tổng thống Pháp ngày 20/3 cho thấy ông Macron thể hiện là người có sức thuyết phục đối với cử tri nhất so với 4 ứng cử viên còn lại. Các ứng cử viên gồm: Thủ tướng François Fillon - đại diện cho cánh hữu và đảng Những người Cộng hòa (LR), cựu Bộ trưởng Giáo dục Benoît Hamon đại diện cho cánh tả và đảng Xã hội (PS), bà Marine Le Pen - Chủ tịch đảng cực hữu Mặt trận Quốc gia (FN) và nhà lãnh đạo phong trào cực tả "Nước Pháp bất khuất" Jean-Luc Mélenchon. Thông tin này đã giúp đồng euro mạnh lên so với đồng USD, tạo thêm lợi thế cho vàng.
Về những kim loại quý khác, giá bạc và palladium đồng loạt tăng 0,7% và 0,6% nhưng giá bạch kim giảm nhẹ 0,1%.
Về nông sản, giá đường thô giảm xuống mức thấp nhất 10 tháng trong khi cà phê biến động theo hướng giảm.
Đường thô giao tháng 5 giá giảm 0,46 US cent hay 2,6% lên 17,24 Uscents/lb, trong phiên có lúc giá xuống chỉ 17,05 US cent, thấp nhất kể từ tháng 5/2016. Đường trắng giao tháng 5 giá giảm 11,50 USD hay 2,3% xuống 484,20 USD/tấn, trong phiên có lúc giá xuống 482,80 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ tháng 6/2016.
Giá giảm bởi các quỹ tích cực bán ra khi triển vọng thời tiết thuận lợi ở Brazil và triển vọng sản lượng của Ấn Độ sẽ hồi phục trong niên vụ tới sau một năm mất mùa.
Với cà phê, giá robusta giảm nhẹ 3 USD hay 0,1% xuống 2.193 USD/tấn; arabica cũng giảm 0,1 US cent hay 0,1% xuống 1,4515 USD/lb.
Giá hàng hóa thế giới 

 

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

47,34

-0,88

-1,16%

Dầu Brent

USD/thùng

50,96

-0,66

-0,87%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

35.050,00

-640,00

-1,79%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

3,09

+0,05

+1,51%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

161,09

-0,04

-0,02%

Dầu đốt

US cent/gallon

150,63

-0,78

-0,52%

Dầu khí

USD/tấn

453,75

-4,75

-1,04%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

44.860,00

-470,00

-1,04%

Vàng New York

USD/ounce

17,54

+0,10

+0,56%

Vàng TOCOM

JPY/g

63,10

+0,30

+0,48%

Bạc New York

USD/ounce

17,54

+0,10

+0,56%

Bạc TOCOM

JPY/g

63,10

+0,30

+0,48%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

971,18

+0,58

+0,06%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

789,69

+7,75

+0,99%

Đồng New York

US cent/lb

261,50

-5,20

-1,95%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

5.880,00

-55,00

-0,93%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

1.922,00

+8,00

+0,42%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

2.864,00

-18,00

-0,62%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

20.350,00

+60,00

+0,30%

Ngô

US cent/bushel

363,50

0,00

0,00%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

428,75

-1,50

-0,35%

Lúa mạch

US cent/bushel

248,50

-2,25

-0,90%

Gạo thô

USD/cwt

9,80

-0,05

-0,56%

Đậu tương

US cent/bushel

1.005,50

+6,00

+0,60%

Khô đậu tương

USD/tấn

327,90

+1,30

+0,40%

Dầu đậu tương

US cent/lb

33,11

+0,37

+1,13%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

505,60

+0,20

+0,04%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.161,00

+45,00

+2,13%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

144,50

-0,75

-0,52%

Đường thô

US cent/lb

17,24

-0,46

-2,60%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

188,50

+5,65

+3,09%

Bông

US cent/lb

76,95

-0,38

-0,49%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

371,50

+0,50

+0,13%

Cao su TOCOM

JPY/kg

262,00

-1,00

-0,38%

Ethanol CME

USD/gallon

1,53

+0,00

+0,07%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg

 

Nguồn: Vinanet