Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng do thị trường quan ngại về khả năng thiếu hụt dầu mỏ khi nguồn cung ở Libya bị gián đoạn. Kết thúc phiên giao dịch, dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 8/2018 tăng 0,20 USD lên 74,14 USD/thùng, trong phiên có lúc đạt 75,27 USD/thùng (cao nhất 3 năm rưỡi); dầu Brent giao tháng 9/2018 tăng 0,46 USD lên 77,76 USD/thùng, trong phiên có lúc đạt 78,85 USD/thùng.
Libya vừa mới tuyên bố tình trạng bất khả kháng về việc xuất khẩu dầu từ hai cảng quan trọng của đất nước này. Các nhà sản xuất dầu mỏ địa phương buộc phải tuyên bố bất khả kháng khi các thế lực hay yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của họ làm gián đoạn nguồn cung về dầu.
Một số yếu tố khác cũng hỗ trợ giá tăng, trong đó có báo cáo từ Viện Dầu mỏ Mỹ cho biết dự trữ dầu thô giảm hơn so với dự kiến trong tuần trước và Iran dọa sự gián đoạn các lô hàng dầu từ Vịnh Trung Đông nếu Washington áp đặt các biện pháp trừng phạt. Nhưng các thương nhân cho biết, sự gián đoạn nguồn cung có thể trong ngắn hạn do OPEC và các nhà sản xuất đồng minh tăng sản lượng.
Chỉ số đồng USD so với sáu đồng tiền chủ chốt giảm 0,25% xuống 94,636 (điểm) vào cuối phiên giao dịch. Đồng USD yếu đi cũng làm cho giá dầu (thường được định giá bằng đồng bạc xanh) trở nên hấp dẫn hơn đối với những khách hàng nắm giữ các đồng tiền khác.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng hồi phục từ mức thấp nhất 7 tháng do đồng USD yếu đi. Giá vàng giao ngay tăng 0,9% lên 1.252,96 USD/ounce sau khi có thời điểm giảm xuống 1.237,32 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 12/12/2017; vàng giao tháng 8 tăng 11,80 USD (1%) lên 1.253,50 USD/ounce.
Giá vàng tăng trong thời điểm bất ổn do vàng được coi là tài sản trú ẩn an toàn, nhưng vàng không được hưởng lợi từ các cuộc tranh chấp thương mại mới đây. Tuy nhiên, các nhà phân tích cảnh báo đà tăng của giá vàng trong phiên vừa qua không báo hiệu và đánh dấu sự chấm dứt của xu hướng giảm giá trên thị trường vàng thời gian gần đây.
Hiện nay, các nhà đầu tư đang chờ đợi biên bản cuộc họp trong tháng Sáu của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) dự kiến công bố ngày 5/7 và số liệu về thị trường lao động trong lĩnh vực phi nông nghiệp của Mỹ, dự kiến công bố ngày 6/7, để đoán định đường hướng trong chính sách tiền tệ tại nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 1,1% lên 16,01 USD/ounce; bạch kim tăng 2,6% lên 837,10 USD/ounce sau khi mặt hàng này vào đầu phiên giảm xuống 793 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ tháng 12/2008, palađi giảm 0,7% xuống còn 938,2 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá thép giảm phiên thứ 2 liên tiếp, do dự trữ sản phẩm thép xây dựng tại Trung Quốc tăng cho thấy nhu cầu tại nước tiêu thụ hàng đầu thế giới suy giảm. Hợp đồng thép cây kỳ hạn tháng 10 trên sàn Thượng Hải đóng cửa giảm 0,6% xuống còn 3.753 NDT (562 USD)/tấn. Giá các nguyên liệu sản xuất thép cũng giảm, giá than cốc trên sàn Đại Liên giảm 1,5% xuống còn 2.036 NDT/tấn, than luyện cốc giảm 1% xuống còn 1.165 NDT/tấn, quặng sắt giảm 0,4% xuống còn 463 NDT/tấn.
Thời tiết nóng tại khu vực phía bắc Trung Quốc, mưa khu vực phía đông và nam nước này đã hạn chế hoạt động xây dựng, trong khi nhu cầu thép trong giai đoạn này thường suy yếu.
Tăng trưởng sản xuất chậm hơn phản ánh sự suy giảm trong các đơn hàng xuất khẩu, trong bối cảnh tranh chấp thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ gia tăng.
Dự trữ thép cây của các thương nhân Trung Quốc đã tăng 29.000 tấn lên 4,72 triệu tấn trong ngày thứ sáu (29/6), sau khi giảm 14 tuần liên tiếp, công ty tư vấn SteelHome cho biết.
Giá đồng chạm mức thấp nhất gần 9 tháng do lo ngại về tăng trưởng toàn cầu khi tranh chấp thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc gia tăng, tuy nhiên đồng USD suy giảm và chứng khoán toàn cầu hồi phục đã hỗ trợ giá không bị rơi quá sâu.
Giá đồng hợp đồng tham chiếu trên sàn London kết thúc phiên giảm 0,5% xuống còn 6.491 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 6.490 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 5/10. Giá đồng đã giảm hơn 10% kể từ ngày 7/6.
Trong khi đó, giá nhôm kết thúc phiên giảm 0,9% xuống còn 2.080 USD/tấn, kẽm giảm 1,2% xuống còn 2.789 USD/tấn, chì tăng 0,2% lên 2.390 USD/tấn, thiếc giảm 0,5% xuống còn 19.655 USD/tấn và nickel giảm 0,9% xuống còn 14.425 USD/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabia kỳ hạn tháng 9 tăng 0,25 cent, tương đương 0,22% lên 1,119 USD/lb, trong phiên có lúc chạm 1,115 USD/lb, mức thấp nhất kể từ tháng 12/2013. Hơp đồng cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 tăng 8 USD, tương đương 0,48% lên 1.685 USD/tấn.
Giá đường thô kỳ hạn giảm do thị trường dư cung trên toàn cầu bởi giá ethanol tại Brazil suy giảm. Hợp đồng đường thô kỳ hạn tháng 10 trên sàn ICE giảm 0,17 cent tương đương 1,47% xuống còn 11,39 cent/lb, trong phiên có lúc đạt 11,24 cent/lb, mức thấp nhất 1 tháng rưỡi. Hợp đồng đường trắng kỳ hạn tháng 8 giảm 3,1 USD tương đương 0,9% xuống còn 336,6 USD/tấn. Giá ethanol đã giảm hơn 12% kể từ đầu tháng 6, và điều này có nghĩa là gây áp lực làm giá đường giảm nhiều hơn, trong khi đó đồng real Brazil tiếp tục suy giảm.
Giá ca cao kỳ hạn tháng 9 trên sàn New York giảm 47 USD tương đương 1,88% xuống còn 2.454 USD/tấn. Hợp đồng ca cao kỳ hạn tháng 9 trên sàn London giảm 36 GBP, tương đương 1,96% xuống còn 1.799 GBP/tấn.
Đối với hạt có dầu, giá đậu tương chạm mức thấp nhất kể từ tháng 3/2016 do lo ngại về tranh chấp thương mại với nước nhập khẩu hàng đầu – Trung Quốc – đẩy giá đậu tương suy giảm. Bắc Kinh tăng thuế đối với đậu tương Mỹ, mặt hàng nông sản có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất sang Trung Quốc, từ ngày 6/7 như mức dự kiến sẽ khiến nhu cầu Trung Quốc đối với các lô hàng của Mỹ suy giảm.
Hợp đồng đậu tương kỳ hạn tháng 8 trên sàn Chicago giảm 5-1/2 cent xuống còn 8,48 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt 8,46-3/4 USD/bushel. Hợp đồng đậu tương vụ mới kỳ hạn tháng 11 đóng cửa giảm 5-1/4 cent xuống còn 8,64-1/4 USD/bushel, mức thấp nhất kể từ ngày 3/3/2016.
Giá cao su chạm mức thấp nhất 1 tuần trong bối cảnh gia tăng lo ngại về tác động của căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, trong khi dự trữ cao su tại Trung Quốc và Nhật Bản ở mức cao. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 12 trên sàn TOCOM kết thúc phiên 3/7 giảm 1,5 JPY xuống còn 172,3 JPY (1,55 USD)/kg, trong phiên có lúc đạt 170,4 JPY/kg, mức thấp nhất kể từ ngày 26/6. Tại Thượng Hải hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 9 tăng 30 NDT lên 10.535 NDT (1.577 USD)/tấn. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 8 trên sàn SICOM giảm 1,9 cent xuống còn 131 Uscent/kg.
Chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump áp đặt thuế quan đối với gói hàng hóa của Trung Quốc có trị giá 34 tỉ USD từ ngày 6/7 với các hành vi thương mại không công bằng và đe dọa các đợt thuế liên tiếp đối với hàng hóa nhập khẩu của nước này có trị giá lên tới 450 tỷ USD.
Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

74,14

+0,20

+0,37%

Dầu Brent

USD/thùng

77,76

+0,46

+0,59%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

50.160,00

-250,00

-0,50%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,85

-0,02

-0,70%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

212,67

+0,91

+0,43%

Dầu đốt

US cent/gallon

217,35

+0,93

+0,43%

Dầu khí

USD/tấn

666,00

+8,75

+1,33%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

68.110,00

-290,00

-0,42%

Vàng New York

USD/ounce

1.260,70

+7,20

+0,57%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.463,00

+49,00

+1,11%

Bạc New York

USD/ounce

16,14

+0,10

+0,60%

Bạc TOCOM

JPY/g

57,30

+0,80

+1,42%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

842,69

+1,23

+0,15%

Palladium giao ngay

USD/ounce

948,79

+5,34

+0,57%

Đồng New York

US cent/lb

293,05

+1,35

+0,46%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

6.491,00

-32,00

-0,49%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

2.080,00

-18,00

-0,86%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

2.789,00

-33,00

-1,17%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

19.655,00

-95,00

-0,48%

Ngô

US cent/bushel

352,00

+5,00

+1,44%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

491,00

+10,75

+2,24%

Lúa mạch

US cent/bushel

239,25

-0,75

-0,31%

Gạo thô

USD/cwt

11,63

+0,22

+1,88%

Đậu tương

US cent/bushel

864,25

-5,25

-0,60%

Khô đậu tương

USD/tấn

326,30

-1,70

-0,52%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,20

-0,19

-0,65%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

506,90

-2,50

-0,49%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.454,00

-47,00

-1,88%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

111,90

+0,25

+0,22%

Đường thô

US cent/lb

11,39

-0,17

-1,47%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

167,70

+0,80

+0,48%

Bông

US cent/lb

82,81

-0,12

-0,14%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

545,20

-12,30

-2,21%

Cao su TOCOM

JPY/kg

170,50

-1,80

-1,04%

Ethanol CME

USD/gallon

1,42

+0,02

+1,58%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg