Trên thị trường năng lượng, giá dầu ít biến động giữa bối cảnh lượng dầu dự trữ của Mỹ giảm mạnh đã không hỗ trợ nhiều cho giá dầu trước lo ngại về nhu cầu dầu toàn cầu và hoài nghi về khả năng giải quyết căng thẳng Mỹ-Trung.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc tăng 25 US cent lên 60,95 USD/thùng, dầu thô ngọt nhẹ (WTI) tăng 4 US cent lên 56,30 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết lượng dầu thô dự trữ của Mỹ đã giảm 4,8 triệu thùng, gần gấp đôi mức dự đoán của giới phân tích, xuống còn 423 triệu thùng trong tuần trước, mức thấp nhất kể từ tháng 10/2018. Đây là tuần thứ ba liên tiếp lượng dầu thô dự trữ của Mỹ giảm dù lượng dầu nhập khẩu tăng mạnh.
Giá dầu đã tăng hơn 2% sau báo cáo trên của EIA, nhưng sau đó đã dần thu hẹp đà tăng trước những hoài nghi về khả năng Mỹ và Trung Quốc tiến gần đến một thỏa thuận thương mại dù hai bên nhất trí tiến hành vòng đàm phán tiếp theo vào đầu tháng tới.
Căng thẳng thương mại kéo dài giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới đã kìm hãm giá dầu. Nhưng giá dầu Brent vẫn tăng khoảng 12% trong năm nay, nhờ thỏa thuận cắt giảm sản lượng của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh, trong đó có Nga.
Giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm từ mức cao nhất 7 tuần, sau số liệu cho thấy rằng mức dự trữ hàng tuần lớn hơn so với dự kiến. Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn New York giảm 10 US cent tương đương 0,4% xuống 2,435 USD/mmBTU, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 12/7/2019 trong phiên trước đó.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm khi số liệu kinh tế khả quan của Mỹ và kỳ vọng về thương mại Mỹ-Trung đã thúc đẩy lợi suất trái phiếu chính phủ của Mỹ và xoa dịu lo ngại về nguy cơ suy thoái.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay giảm 2,3% xuống còn 1.517,20 USD/ounce, trong khi giá vàng kỳ hạn giảm 2,2% và khép phiên ở mức 1.525,90 USD/ounce.
Số liệu cho thấy số việc làm tại các doanh nghiệp tư nhân của Mỹ đã tăng lên và lĩnh vực dịch vụ của nước này cũng tăng tốc trong tháng Tám. Bên cạnh các tín hiệu tích cực trong quan hệ thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, số liệu này cũng góp phần thúc đẩy các thị trường chứng khoán.
Bộ Thương mại Trung Quốc xác nhận sẽ tiến hành các cuộc đàm phán cấp cao với Mỹ vào đầu tháng 10 tới, qua đó làm gia tăng những kỳ vọng về sự “tan băng” trong căng thẳng thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ đã tăng mạnh trước những diễn biến tích cực trong đàm phán thương mại Mỹ-Trung và số liệu khả quan nói trên của Mỹ.
Giới đầu tư hiện hướng sự chú ý đến số liệu việc làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp của Mỹ, dự kiến được công bố trong ngày 6/9.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 4,2% xuống còn 18,74 USD/ounce, trong khi giá bạch kim giảm khoảng 2,3% và được giao dịch ở mức 963 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng lên mức cao nhất kể từ ngày 19/8/2019, sau khi Trung Quốc và Mỹ đồng ý tổ chức các cuộc đàm phán thương mại cấp cao, dấy lên kỳ vọng kết thúc một cuộc tranh chấp thương mại đã làm tăng trưởng kinh tế toàn cầu suy yếu và tiêu thụ kim loại giảm. Giá đồng kỳ hạn trên sàn London tăng 1,7% lên 5.845 USD/tấn.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng phiên thứ 6 liên tiếp, sau khi chính phủ nước này cam kết sẽ thực hiện các chính sách tài chính và tiền tệ nhằm thúc đẩy nền kinh tế chậm chạp.
Giá quặng sắt kỳ hạn trên sàn Đại Liên tăng 1,2% lên 647 CNY/tấn.
Đồng thời, giá thép cây kỳ hạn trên sàn Thượng Hải tăng 0,7% lên 3.439 CNY/tấn, trong khi giá thép cuộn cán nóng giảm 0,4% xuống 3.442 CNY/tấn.
Bộ Thương mại Mỹ công bố sẽ áp đặt thuế đối với thép kết cấu Trung Quốc và Mexico lên đến 141% và 31% theo thứ tự lần lượt.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn ICE giảm 1,2 US cent tương đương 1,2% xuống 95,4 US cent/lb, vẫn xa so với mức thấp nhất 5 tháng (93,4 US cent/lb) trong ngày 20/8/2019. Giá cả phê robusta kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn ICE giảm 38 USD tương đương 2,9% xuống 1.272 USD/tấn, trong phiên có lúc chạm 1.262 USD/tấn.
Giá đường chạm mức thấp nhất 11 tháng xuống dưới 11 US cent/lb, do nguồn cung từ châu Á tăng mạnh và giá hợp đồng đường trắng giảm trước khi hết hiệu lực vào tuần tới.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn ICE giảm 0,04 US cent tương đương 0,4% xuống 10,97 US cent/lb, thấp nhất kể từ cuối tháng 9/2018, trong phiên có lúc chạm 10,86 US cent/lb. Giá đường trắng giao cùng kỳ hạn trên sàn ICE giảm 70 US cent tương đương 0,2% xuống 302,5 USD/tấn, thấp nhất kể từ giữa tháng 7/2019.
Giá đậu tương tại Mỹ giảm hơn 1% do lo ngại nguồn cung và nhu cầu xuất khẩu suy yếu, khi cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung vẫn tiếp diễn.
Giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn Chicago giảm 14 US cent xuống 8,61-1/2 USD/bushel, trong phiên có lúc chạm 8,58-1/4 USD/bushel, thấp nhất 1 tuần.
Trong khi đó, giá lúa mì và ngô đều tăng do hoạt động đẩy mạnh mua vào và lo ngại về hạn hán tại Australia. Trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 5-1/2 US cent lên 4,66-1/4 USD/bushel và giá ngô giao cùng kỳ hạn tăng 1/4 US cent lên 3,58-3/4 USD/bushel.
Giá dầu cọ tại Malaysia giảm xuống mức thấp nhất 2 tuần, sau khi nước nhập khẩu dầu thực vật hàng đầu - Ấn Độ - nâng thuế dầu cọ tinh chế từ Malaysia lên 50% từ mức 45% trong 6 tháng. Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn Bursa Malaysia giảm 0,6% xuống 2.175 ringgit (519,09 USD)/tấn, trong phiên có lúc giảm 1,1% xuống 2.163 ringgit/tấn, thấp nhất kể từ ngày 21/8/2019.
Giá cao su tại Tokyo giảm do lo ngại dư cung song giá cao su kỳ hạn tăng tại Thượng Hải.
Trên sàn TOCOM, giá cao su kỳ hạn tháng 2/2020 giảm 0,7 JPY (0,0066 USD) xuống 165,7 JPY/kg, trong khi đó giá cao su kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 0,2 JPY lên 141,2 JPY/kg.
Tại Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 55 CNY (7,75 USD) lên 12.060 CNY/tấn, giá cao su TSR20 kỳ hạn tăng 20 CNY lên 10.310 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
56,30
|
+0,04
|
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
60,95
|
+0,25
|
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
36.630,00
|
+1.110,00
|
+3,13%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,44
|
-0,01
|
-0,25%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
152,42
|
-0,87
|
-0,57%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
187,54
|
-0,48
|
-0,26%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
575,25
|
+1,25
|
+0,22%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
54.730,00
|
+1.190,00
|
+2,22%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.557,50
|
-2,90
|
-0,19%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
5.283,00
|
+42,00
|
+0,80%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
19,57
|
+0,02
|
+0,09%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
66,50
|
+0,40
|
+0,61%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
996,07
|
+9,69
|
+0,98%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.563,01
|
+4,50
|
+0,29%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
258,90
|
-0,60
|
-0,23%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
5.748,00
|
+138,00
|
+2,46%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.775,00
|
+22,00
|
+1,25%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.310,00
|
+105,00
|
+4,76%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
17.200,00
|
+490,00
|
+2,9
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
358,75
|
+0,25
|
+0,07%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
460,50
|
-0,25
|
-0,05%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
266,00
|
-1,75
|
-0,65%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,96
|
-0,02
|
-0,21%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
873,50
|
-2,00
|
-0,23%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
297,80
|
-0,70
|
-0,23%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
28,93
|
-0,06
|
-0,21%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
446,10
|
-0,40
|
-0,09%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.269,00
|
+24,00
|
+1,07%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
96,60
|
+1,05
|
+1,10%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
11,01
|
-0,18
|
-1,61%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
102,75
|
+2,55
|
+2,54%
|
Bông
|
US cent/lb
|
58,21
|
0,00
|
0,00%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
362,30
|
-6,60
|
-1,79%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
166,10
|
-0,30
|
-0,18%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,32
|
0,00
|
-0,15%
|
Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters