Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm sau số liệu cho thấy sản lượng dầu thô của Mỹ chạm mức cao kỷ lục mới và dự trữ dầu nội địa tăng cao hơn dự kiến.
Kết thúc phiên, dầu thô ngọt nhẹ giảm 54 US cent xuống 61,67 USD/thùng, giảm khoảng 20% so với mức đỉnh gần 76,41 USD/thùng hồi đầu tháng 10/2018; dầu Brent cũng giảm 6 US cent xuống 72,07 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết trong tuần gần nhất dữ trữ dầu thô đã tăng 5,8 triệu thùng, cao hơn gấp đôi dự kiến của các nhà phân tích trước đó. Sản lượng “vàng đen” cũng chạm mức kỷ lục của tuần khi tăng lên 11,6 triệu thùng/ngày.
Mặc dù lượng dầu xuất khẩu của Iran dự kiến sẽ sụt giảm do lệnh trừng phạt của Mỹ, song báo cáo từ Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nhà dự báo khác cho rằng thị trường dầu mỏ toàn cầu vẫn sẽ dư cung trong năm 2019, giữa lúc nhu cầu tăng trưởng chậm lại.
Theo hãng tin TASS (Nga), Saudi Arabia và Nga bắt đầu có những cuộc thảo luận song phương về việc tiến hành cắt giảm sản lượng vào năm tới.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng nhẹ trong bối cảnh đồng USD suy yếu sau cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ tại Mỹ và do giới đầu tư đang chờ đợi cuộc họp của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) để tìm kiếm dấu hiệu về kế hoạch nâng lãi suất trong tương lai.
Giá vàng kỳ hạn tăng 2,4 USD (0,2%) lên 1.228,70 USD/ounce, trong khi vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.227,03 USD/ounce, sau khi chạm mức cao 1.235,83 USD/ounce.
Các nhà giao dịch theo dõi sát sao cuộc họp hai ngày của Fed, trong hai ngày 7-8/11, để đánh giá triển vọng đối với chính sách tiền tệ của Mỹ.
Cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ hôm 6/11 đã diễn ra như dự kiến, với cán cân quyền lực chia đều cho cả đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa. Chiều 7/11 theo giờ Việt Nam, các kết quả bỏ phiếu tại những bang cuối cùng của nước Mỹ dần được công bố với ưu thế đa số về tay đảng Dân chủ tại Hạ viện, còn đảng Cộng hòa tiếp tục nắm quyền kiểm soát Thượng viện.
Chỉ số đồng USD, thước đo đánh giá đồng bạc xanh với rổ tiền tệ chính đã giảm khoảng 0,23% xuống 96,05 điểm, do triển vọng rằng những chính sách tài chính mới do chính quyền Tổng thống Donald Trump đề xuất sẽ đối mặt với "sự ách tắc" trong Quốc hội. Điều đó giúp vàng, vốn được giao dịch bằng đồng tiền này, trở nên hấp dẫn hơn cho những nhà đầu tư sở hữu đồng tiền khác.
Các nhà giao dịch hiện đang theo dõi sát sao cuộc họp hai ngày của Fed, trong hai ngày 7-8/11, để đánh giá triển vọng đối với chính sách tiền tệ của Mỹ.
Walter Pehowich, một quan chức cấp cao của Dillon Gage Metals, cho biết có khả năng không có sự thay đổi nào trong chính sách lãi suất của Fed. Tuy nhiên, các nhà đầu tư và các nhà giao dịch sẽ xem liệu có sự thay đổi nào đối với những đồn đoán về lộ trình nâng lãi suất trong năm 2019 hay không.
Fed đã nâng lãi suất trong tháng Chín và cho biết thể chế này có kế hoạch nâng lãi suất hơn bốn lần vào cuối năm 2019 và trong năm 2020, viện dẫn tăng trưởng kinh tế ổn định và thị trường việc làm khả quan.
SPDR Gold Trust, quỹ giao dịch vàng lớn nhất thế giới, cho biết lượng vàng do quỹ này nắm giữ đã giảm phiên thứ ba liên tiếp xuống 756,70 tấn trong phiên 6/11.
Trên thị trường kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,3% tăng 14,57 USD/ounce, còn giá palađi tăng 1,4% lên 1.131,80 USD/ounce. Giá bạch kim giao ngay giao ngay tăng 0,2% lên 869,45 USD/ounce, sau khi đạt mức 877,50 USD/ounce, mức cao nhất trong hơn bốn tháng qua.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá thép cây kỳ hạn tại Thượng Hải giảm xuống mức thấp nhất trong một tháng với kỳ vọng nguồn cung tăng tại Trung Quốc trong mùa đông và năm tới.
Trung Quốc đã xóa bỏ các biện pháp cắt giảm sản xuất trong mùa đông, thay vào đó cho phép các thành phố và các tỉnh tự đặt hạn chế sản xuất thép.
Giá thép cây giao tháng 1/2019 tại Thượng Hải đóng cửa giảm 1,7% xuống 3.930 NDT sau khi giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 8/10 là 3.914 CNY(565USD)/tấn, vào phiên sáng.
Giá nguyên liệu thép cũng giảm. Giá than luyện cốc tại sàn Đại Liên giảm 1,6% xuống 1.361 CNY/tấn, và than cốc giảm 0,6% còn 2.395,50 CNY/tấn.Giá quặng sắt giảm 0,6% còn 511 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá cao su kỳ hạn tại Tokyo đóng cửa tăng nhẹ, sau khi chạm mức thấp nhất trong 26 tháng trong bối cảnh lo ngại về cung vượt cầu và nhu cầu quá thấp.
Hợp đồng cao su tại Tokyo giao tháng 4/2019 tăng 0,8 JPY lên 160.3 JPY(1,42 USD)/ kg sau khi chạm mức 158,8 JPY, mức thấp nhất kể từ ngày 16/9/2016.
Hợp đồng cao su TSR20 tại TOCOM giao tháng 5/2019 chốt phiên tăng 0,6 JPY đạt 146 yên/kg.Hợp đồng cao su kỳ hạn Thượng Hải giao tháng 1/2019 tăng 145 CNY đạt 11.320 CNY(1.633,15 USD)/tấn.Hợp đồng cao su giao tháng 12/2018 tại SICOM, Singapore chốt phiên ở mức 124,7 UScent/kg, tăng 0,3 cent.
Giá sữa toàn cầu giảm lần thứ sáu liên tiếp trong một cuộc đấu giá sáng ngày 7/11 do giá sữa bột toàn phần giảm xuống mức thấp nhất 2 năm. Chỉ số giá sữa hàng ngày giảm 2%, với giá bán trung bình là 2.851 USD/tấn. Chỉ số đã giảm 0,3% trong đợt đấu giá trước đó. Giá bột nguyên kem giảm 2,9% xuống mức thấp nhất kể từ tháng 8/2016 và dự kiến sẽ tiếp tục giảm do nguồn cung mạnh từ New Zealand, nước xuất khẩu sữa lớn nhất thế giới. Giá bơ cũng giảm 1,7%, nhưng sữa bột gầy tăng 1,2%.
Giá hàng hóa thế giới
Mặt hàng
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
61,67
|
-0,54
|
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
72,07
|
-0,06
|
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
49.850,00
|
+500,00
|
+1,01%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,53
|
-0,03
|
-0,76%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
165,10
|
+0,36
|
+0,22%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
223,34
|
-0,37
|
-0,17%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
681,00
|
+5,00
|
+0,74%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
65.980,00
|
+620,00
|
+0,95%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.224,20
|
-4,50
|
-0,37%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.453,00
|
0,00
|
0,00%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
14,52
|
-0,05
|
-0,34%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
53,00
|
+0,10
|
+0,19%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
871,43
|
-1,50
|
-0,17%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.132,27
|
-3,65
|
-0,32%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
273,90
|
-1,55
|
-0,56%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.153,00
|
-5,00
|
-0,08%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.985,00
|
+34,50
|
+1,77%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.455,00
|
-46,00
|
-1,84%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
19.050,00
|
0,00
|
0,00%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
371,50
|
-0,75
|
-0,20%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
508,00
|
-2,25
|
-0,44%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
287,25
|
0,00
|
0,00%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
10,74
|
+0,01
|
+0,09%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
878,25
|
-1,25
|
-0,14%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
308,30
|
+0,30
|
+0,10%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
28,19
|
-0,01
|
-0,04%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
482,60
|
-0,40
|
-0,08%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.399,00
|
+11,00
|
+0,46%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
115,60
|
+2,35
|
+2,08%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
13,01
|
+0,05
|
+0,39%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
137,40
|
+0,80
|
+0,59%
|
Bông
|
US cent/lb
|
79,08
|
+0,12
|
+0,15%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
340,80
|
-9,50
|
-2,71%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
159,80
|
-0,50
|
-0,31%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,28
|
+0,01
|
+0,55%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg