Trên thị trường năng lượng, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng do nhiều nhà sản xuất dầu Mỹ ở khu vực Vịnh Mexico phải tạm dừng hoạt động trước cơn bão Laurau, trong khi Brent giảm vì lo ngại về triển vọng nhu cầu xăng dầu do đại dịch Covid-19.
Khép phiên này, giá dầu Brent Biển Bắc giảm 22 US cent xuống 45,64 USD/thùng, trong khi dầu WTI tăng 4 US cent lên 43,39 USD/thùng.
Ngày 26/8, Trung tâm Bão Quốc gia Mỹ (NHC) đã nâng bão Laura lên siêu bão cấp 4 và đang di chuyển hướng về vùng duyên hải các bang miền Nam của nước Mỹ là Louisiana và Texas, khiến các chính quyền sở tại phải ra lệnh sơ tán hàng trăm nghìn người dân sinh sống ven biển. Bão Laura, với sức gió lên tới 230 km/h, dự kiến sẽ đổ bộ dọc bờ biển miền Nam nước Mỹ vào tối 26/8 hoặc rạng sáng 27/8 (theo giờ địa phương). Thông báo của NHC cho hay, ở cấp độ 4 "đặc biệt nguy hiểm" - mức cao thứ 2 trong thang bão Saffir-Simpson, bão Laura có thể gây sóng lớn cao tới 6 m và gió mạnh, cũng như lũ quét và lốc xoáy, ở ven biển Louisiana và Texas. Dự kiến bão Laura cũng sẽ trút lượng mưa từ 113- 126 mm tại nhiều nơi từ ngày 26 đến 28/8.
Mỹ đã đóng cửa 9 nhà máy lọc dầu – với công suất tiêu thụ gần 2,9 triệu thùng dầu/ngày, chiếm khoảng 15% sản lượng dầu của nước này. Các công ty khai thác dầu mỏ hôm 25//8 cũng đã tạm ngừng hoạt động của 310 cơ sở khai thác dầu ngoài khơi và dừng khai thác 1,56 triệu thùng dầu/ngày, tương đương 84% sản lượng dầu ngoài khơi của khu vực Vịnh Mexico.
Trước cơn bão này, xuất khẩu dầu thô của Mỹ trong tuần qua đã tăng mạnh nhất kể từ tháng 2/2019, lên gần 3,4 triệu thùng/ngày, theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ. Trong khi đó, tồn trữ dầu thô của nước này đã giảm 4,7 triệu thùng trong tuần đến 21/8, nhiều hơn mức dự đoán là giảm 3,7 triệu thùng/ngày.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do các nhà đầu tư đánh cược rằng Mỹ sẽ có thêm các biện pháp kích thích mới để giảm thiểu tác động của Covid-19.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 1% lên 1.948,07 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 12/2020 tăng 1,5% lên 1.952,50 USD/ounce.
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) Jerome Powell có bài phát biểu tại hội nghị chuyên đề Jackson Hole vào ngày 27/8. Bài phát biểu của ông Powell được dự báo sẽ cung cấp cái nhìn rõ hơn về chiến lược của FED đố với chính sách tiền tệ và lạm phát. Ông Powell được dự báo sẽ ủng hộ mục tiêu lạm phát cho phép các nhà hoạch định chính sách để lạm phát tăng cao hơn mục tiêu truyền thống hàng năm là 2%.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 3,5% lên 27,34 USD/ounce, bạch kim tăng 0,3% 929,91 USD/ounce và palađi tăng 0,9% lên 2.183,43 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng lên mức cao kỷ lục 2 năm do lượng đồng lưu kho trên sàn London giảm xuống mức thấp nhất 14 năm và thị trường chứng khoán Mỹ tăng lên mức cao kỷ lục mới. Nhân dân tệ tăng giá mạnh nhất so với đồng USD kể từ tháng 1, khiến kim loại trở nên rẻ hơn đối với các khách hàng Trung Quốc.
Kết thúc phiên giao dịch trên sàn London (LME), đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng tăng 0,9% lên 6.588,50 USD/tấn, gần sát mức cao 6.707 USD/tấn đạt được hôm 19/8. Các cuộc biểu tình của công nhân ở Grasberg của Indonesia - mỏ đồng lớn thứ hai thế giới – đã bước sang ngày thứ 3, làm gián đoạn sản xuất ở mỏ này.
Các nhà đầu tư lạc quan hơn về triển vọng kinh tế toàn cầu, khi các quan chức Mỹ và Trung Quốc tái khẳng định cam kết về thỏa thuận thương mại giai đoạn I và hy vọng FED sẽ có thêm biện pháp kích thích kinh tế. "Dự báo lạm phát sẽ đẩy tăng nhu cầu kim loại – vốn là một tài sản có thể giúp phòng ngừa lạm phát", nhà phân tích Nitesh Shah của WisdomTree cho biết.
Lượng đồng lưu kho trên sàn LME hiện chỉ 90.025 tấn, thấp nhất kể từ 2006 và giảm nhiều so với 280.000 tấn hồi tháng 5. Citibank cho biết, nhu cầu đồng của Trung Quốc trong tháng 7/2020 so với cùng kỳ năm trước tăng mạnh nhất kể từ tháng 2/2017, đồng thời dự báo giá kim loại này có thể đạt 6.800 USD/tấn trong vòng 3 tháng tới.
Giá nhôm trên sàn LME tăng 0,2% trong phiên vừa qua, lên 1.779 USD/tấn. Hãng nhôm Rusal của Nga thông báo kế hoạch thoái vốn trong liên doanh ở miền Nam Trung Quốc - North United Aluminium (Thâm Quyến) - vì lo ngại về việc lượng tiêu thụ thấp. Tuy nhiên, hãng này đang mở một văn phòng mới ở thành phố Thượng Hải (Trung Quốc) để tăng cường sự hiện diện tại thị trường Trung Quốc nói riêng, nơi tiêu thụ nhôm nhiều nhất thế giới, và Châu Á nói chung. Người phát ngôn của Russal cho biết, việc mở văn phòng ở Thượng Hải nằm trong chiến lược tăng doanh số bán sản phẩm ở Châu Á và để tiếp thị aluminin hàm lượng carbon thấp. Châu Á chiếm 27% tiêu thụ nhôm của Russal trong giai đoạn tháng 4-6/2020.
Giá thép cây trên sàn Thượng Hải giảm 0,5% xuống 3.777 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng giảm 0,7% xuống 3.928 CNY/tấn. Trong khi đó, quặng sắt trên sàn Đại Liên giá tăng 0,7% lên 829 CNY/tấn.
Giá thép không gỉ kỳ hạn giao sau trên thị trường Trung Quốc tăng trong phiên vừa qua do tình trạng thiếu quặng nickel và ferronickel. Kết thúc phiên giao dịch, thép không gỉ kỳ hạn tháng 10/2020 tăng 1,2% lên 15.165 CNY (2.198,59 USD)/tấn. Đầu phiên có lúc giá đạt 15.200 CNY.
Nguồn cung (nickel) từ Philippines bị thắt chặt và dự trữ ferronickel giảm sút đã đẩy giá nguyên liệu sản xuất thép không gỉ tăng lên. Dự báo nguồn cung 2 kim loại này sẽ chưa được cải thiện trong tương lai gần.
Trên thị trường nông sản, giá phê robusta tăng lên mức cao kỷ lục 8 tháng do nhu cầu mua duy trì ở mức cao trong khi lượng hàng lưu kho giảm.
Trên sàn London, cà phê robusta kỳ hạn tháng 11 tăng 6 USD (0,4%) lên 1.427 USD/tấn vào cuối phiên, trong phiên có lúc đạt mức cao nhất 8 tháng là 1.444 USD/tấn; arabica kỳ hạn tháng 12 giảm 0,85 US cent (0,7%) xuống 1,221 USD/lb.
Các yếu tố cơ bản đang hỗ trợ cho giá robusta, như sản lượng ở Việt Nam trong niên vụ 2020/21 dự báo giảm. Các đại lý cho biết, việc người tiêu dùng chuyển sang tiêu thụ cà phê ở nhà thay vì ở ngoài hàng đã khiến nhu cầu robusta tăng lên, và lượng lưu trong các kho của sàn London giảm xuống chỉ còn 109.080 tấn vào ngày 25/8/2020, so với 150.000 tấn một năm trước đó.
Các thương hiệu bán lẻ thường sử dụng nguyên liệu pha trộn giữa arabica và robusta, trong khi các cửa hàng cà phê chủ yếu chỉ sử dụng arabica. Cà phê hòa tan – được sử dụng rộng rãi ở các gia đình – được sản xuất từ robusta.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10 giảm 0,18 US cent (1,4%) xuống 12,58 US cent/lb; đường thô giao cùng kỳ hạn cũng giảm 2,8 USD (0,8%) xuống 359,5 USD/tấn.
Các đại lý cho biết, thị trường đường đang không có xu hướng giá rõ rệt, do sản lượng ở Brazil tăng nhưng dự báo ở Thái Lan, Liên minh Châu Âu và Nga dự báo giảm.
Một nhà môi giới ở Mỹ cho biết, có dấu hiệu cho thấy khách hàng Trung Quốc đang dừng mua trong thời gian gần đây (việc Trung Quốc mua mạnh là yếu tố chính đẩy giá tăng gần đây).
Giá cacao trên sàn New York kỳ hạn tháng 12 giảm 11 USD (0,4%) xuống 2.476 USD/tấn, trong khi đó trên sàn London giảm 32 GBP (1,9%) xuống 1.683 GBP/tấn.
Mặc dù giá giảm trong phiên vừa qua, song các đại lý cho biết, thị trường vẫn trong xu hướng tăng giá bởi khô hạn có thể ảnh hưởng tới sản lượng cacao ở Tây Phi trong vụ 2020/21 sắp tới. Hiệp hội Cacao Nigeria dự báo sản lượng của họ sẽ giảm ít nhất 20% thời tiết khô hạn và virus gây bệnh trên cây.
Giá cao su kỳ hạn giao sau trên thị trường Nhật Bản tăng lên mức cao kỷ lục 6 tháng trong phiên vừa qua do lo ngại tình trạng thiếu nhân lực ở Thái Lan do Covid-19 có thể dẫn tới thiếu hụt nguồn cung ở nước sản xuất số 1 thế giới này.
Trên sàn Osaka, cao su kỳ hạn tháng 2/2020 tăng 2,5 JPY lên 181,5 JPY (1,7 USD)/kg. Đầu phiên có thời điểm giá đạt 181,9 JPY, cao nhất kể từ 27/2. Trái lại, giá cao su trên sàn Thượng Hải (kỳ hạn tháng 1/2021) giảm 35 CNY xuống 12.575 CNY (1.825 USD)/tấn, do các nhà đầu tư tranh thủ bán kiếm lời sau khi giá đạt mức cao nhất kể từ 21/1.
Giá hàng hóa thế giới sáng 27/8/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

43,41

+0,02

+0,05%

Dầu Brent

USD/thùng

45,64

-0,22

-0,48%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

30.770,00

-140,00

-0,45%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,41

-0,05

-1,91%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

135,90

-0,16

-0,12%

Dầu đốt

US cent/gallon

124,21

-0,26

-0,21%

Dầu khí

USD/tấn

371,00

-7,50

-1,98%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

43.800,00

+700,00

+1,62%

Vàng New York

USD/ounce

1.960,20

+7,70

+0,39%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.656,00

+86,00

+1,31%

Bạc New York

USD/ounce

27,61

+0,00

+0,00%

Bạc TOCOM

JPY/g

93,10

+3,80

+4,26%

Bạch kim

USD/ounce

935,43

-1,30

-0,14%

Palađi

USD/ounce

2.186,25

-2,61

-0,12%

Đồng New York

US cent/lb

299,30

+1,15

+0,39%

Đồng LME

USD/tấn

6.594,00

+65,00

+1,00%

Nhôm LME

USD/tấn

1.780,00

+4,50

+0,25%

Kẽm LME

USD/tấn

2.467,00

-15,00

-0,60%

Thiếc LME

USD/tấn

17.550,00

+190,00

+1,09%

Ngô

US cent/bushel

354,25

-0,25

-0,07%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

539,75

+4,25

+0,79%

Lúa mạch

US cent/bushel

264,00

-7,50

-2,76%

Gạo thô

USD/cwt

12,32

+0,24

+2,03%

Đậu tương

US cent/bushel

924,25

+4,00

+0,43%

Khô đậu tương

USD/tấn

299,30

-0,70

-0,23%

Dầu đậu tương

US cent/lb

32,53

+0,25

+0,77%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

493,60

+2,60

+0,53%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.476,00

-11,00

-0,44%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

122,10

-0,85

-0,69%

Đường thô

US cent/lb

12,58

-0,18

-1,41%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

116,75

-1,95

-1,64%

Bông

US cent/lb

65,58

0,00

0,00%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

765,80

+29,00

+3,94%

Cao su TOCOM

JPY/kg

137,60

+1,40

+1,03%

Ethanol CME

USD/gallon

1,29

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: VITIC / Reuters, Bloomberg