Trên thị trường năng lượng, giấ dầu giảm mạnh do số ca lây nhiễm COVID-19 đang gia tăng ở Ấn Độ, Anh, Tây Ban Nha và một số bang của Mỹ gây lo ngại làm suy yếu đà phục hồi của kinh tế toàn cầu và tác động tiêu cực đến nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu ngọt nhẹ (WTI) giảm 3,01 USD (7,6%) xuống 36,76 USD, sau khi có lúc chạm mức thấp nhất kể từ ngày 15/6; dầu Brent giảm 2,23 USD (5,3%) xuống 39,78 USD/thùng.
Giá dầu Brent đã giảm phiên thứ năm liên tiếp và mất hơn 10% kể từ cuối tháng 8/2020. Giá cả 2 loại dầu đều ra khỏi vùng biên độ của tháng 8. Phiên liền trước, giá dầu giảm mạnh do tập đoàn Aramco của Saudi Arabia thực hiện đợt hạ giá dầu mạnh nhất đối với khách hàng châu Á - động thái được coi là dấu hiệu cho thấy tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ dầu mỏ có thể chững lại. Nhà phân tích năng lượng Phil Verleger của PK Verleger LLC có trụ sở tại Colorado cho rằng quyết định của Aramco khiến dầu WTI không hấp dẫn khách hàng châu Á.
Cả giá dầu WTI và Brent đều đã thoát ra khỏi biên độ giao dịch trong suốt tháng Tám. Bob Yawger, nhà quản lý tại Mizuho, nhận định ngày Lao động năm nay (7/9) chính thức đánh dấu sự kết thúc của mùa di chuyển cao điểm tại Mỹ, thời điểm nhu cầu tiêu thụ xăng ở mức cao nhất.
Thực tế này kết hợp với những vấn đề về cung và cầu trên thị trường đang làm tình hình càng trở nên tồi tệ hơn.
Theo chuyên gia Yawger, với việc các nhà máy lọc dầu giảm công suất trong những tuần tới để tiến hành bảo dưỡng, kho dự trữ dầu thô thậm chí sẽ còn tăng cao hơn.
Trong tháng 8, Trung Quốc nhập khẩu 47,47 triệu tấn dầu thô, tương đương 11,18 triệu thùng dầu/ngày. Trung Quốc bắt đầu ồ ạt nhập khẩu nhiên liệu này từ tháng 5 khi giá dầu lao dốc. Dự báo nhập khẩu dầu của Trung Quốc có thể sẽ giảm trong thời gian bởi nhu cầu tại nước này đã đạt đỉnh và giá dầu đang dần phục hồi.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng phục hồi từ mức thấp nhất trong gần 2 tuần sau khi các thị trường chứng khoán bị bán tháo thúc đẩy các nhà đầu tư tìm kiếm nơi trú ẩn an toàn, bất chấp USD mạnh lên (tăng 0,7% so với các đồng tiền đối thủ).
Vàng giao ngay tăng 0,4% lên 1.936,87 USD/ounce sau khi giảm khoảng 1,2% xuống 1.906,24 USD. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 12 đóng cửa phiên tăng 0,5% lên 1.943,2 USD/ounce.
Giá vàng tăng do các thị trường chứng khoán toàn cầu và giá dầu lao dốc sau khi các cổ phiếu công nghệ bị bán tháo mạnh, tình trạng Brexit không rõ ràng và lo ngại về sự bùng phát các trường hợp nhiễm virus corona.
Giá vàng đã tăng hơn 27% từ đầu năm tới nay, sau khi các ngân hàng trung ương trên toàn cầu tung ra các gói kích thích kinh tế khổng lồ đề bù đắp thiệt hại do đại dịch virus corona gây ra.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do các thị trường chứng khoán và giá dầu giảm và USD mạnh lên, nhưng hiện vẫn quanh mức cao nhất 2 năm do lượng đồng lưu kho trên sàn LME ở mức thấp nhất 15 năm và các nhà đầu cơ đặt cược giá sẽ tăng tiếp.
Đồng giao sau 3 tháng trên sàn LME giảm 1,8% xuống 6.670,5 USD/tấn. Kim loại này đã đạt 6.830 USD/tấn trong ngày 1/9 (tăng hơn 50% từ mức thấp hồi tháng 3) do nhu cầu từ nước tiêu dùng hàng đầu, Trung Quốc hồi sinh và các nhà đầu tư đã nâng đặt cược về giá tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 6/2018.
Cổ phiếu công nghệ đã kéo giá chứng khoán Mỹ giảm và giá dầu giảm hơn 5% trong khi USD mạnh lên khiến các kim loại (định giá bằng USD) đắt hơn cho những người mua bằng đồng tiền khác.
Lượng đồng lưu kho trên sàn LME giảm 1.000 tấn xuống 76.550 tấn, thấp nhất kể từ tháng 12/2005, và chênh lệch lớn giữa giá đồng giao ngay và giá giao sau 3 tháng cho thấy một thị trường hạn hẹp. Lượng đồng lưu kho trên sàn Comex ở Mỹ cũng đang sụt giảm, nhưng tồn kho tại sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải và các kho ngoại quan của Trung Quốc tăng kể từ tháng 6.
Giá thép tại Trung Quốc giảm, với thép cuộn cán nóng giảm phiên thứ 4 liên tiếp và thép thanh giảm phiên thứ ba, bởi số liệu xuất khẩu yếu khi nhu cầu đối với các nguyên liệu công nghiệp chủ chốt ở nước ngoài vẫn thấp.
Thép cuộn cán nóng giao tháng 1/2021 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải đóng cửa giảm 1,4% xuống 3.842 CNY/tấn; thép thanh dùng trong xây dựng giảm 0,9% xuống 3.719 CNY/tấn; thép không gỉ giao tháng 11 ở Thượng Hải tăng 0,5% lên 14.880 CNY/tấn.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên giảm 1,6% xuống 844 CNY/tấn; quặng sắt giao ngay hàm lượng 62% xuất sang Trung Quốc tăng lên 127,5 USD/tấn trong ngày 7/9.
Giá thép giảm sau khi Trung Quốc báo cáo xuất khẩu sản phẩm thép trong tháng 8 giảm 26,6% so với năm trước. Tăng trưởng sản lượng và tiêu thụ thép toàn cầu sẽ thấp trong năm 2020/21 so với giai đoạn năm 2017/19, ngoài ra Trung Quốc sẽ vẫn là động lực thúc đẩy tiêu thụ thép nói chung. Công ty Fitch Solution dự đoán thị trường thép dư thừa 1,1 triệu tấn trong năm 2020, so với thiếu hụt 16,7 triệu tấn trong năm ngoái.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 10 đóng cửa tăng 0,11 US cent hay 0,9% lên 12,04 US cent/lb sau khi đã xuống mức thấp nhất kể từ cuối tháng 7 tại 11,78 US cent trong phiên này. Đường trắng kỳ hạn tháng 10 tăng 1,4 USD hay 0,4% lên 360,4 USD/tấn.
Ai Cập gia hạn lệnh cấm nhập khẩu đường trắng và đường thô thêm 3 tháng trong một nỗ lực xử lý các kho dự trữ tại nước này.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 chốt phiên giảm 1,9 US cent hay 1,4% xuống 1,321 USD/lb trong một phiên giao dịch biến động có lúc giá đã giảm 5%; cà phê robusta kỳ hạn tháng 11 đóng cửa giảm 16 USD hay 1,1% xuống 1.411 USD/tấn.
Các đại lý cho biết cà phê đang điều chỉnh sau một đợt tăng giá mạnh, bị áp lực bởi USD mạnh lên nhưng không có bất cứ yếu tố cung cầu mới nào. Lượng cà phê arabica lưu kho trên sàn giao dịch ICE duy trì ở mức thấp nhất 20 năm đã củng cố giá cà phê.
Giá cao su Nhật Bản mất chuỗi giảm 4 ngày liên tiếp do việc săn giá hời và lo lắng về nguồn cung từ Thái Lan bởi thời tiết xấu và tính trạng thiếu hụt lao động trong bối cảnh đại dịch Covid-19. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 2/2021 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 0,7 JPY hay 0,4% lên 180,3 JPY (1,7 USD)/kg, phục hồi từ mức thấp nhất 2 tuần đã chạm tới trong phiên liền trước; cao su trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giao tháng 1/2021 giảm 10 CNY xuống 12.510 CNY (1.830 USD)/tấn.
Giá giao ngay tăng ở Thái Lan phản ánh nguồn cung thắt chặt hơn đã thúc đẩy giá trên sàn Osaka, đặc biệt với các hợp đồng ngắn hạn. Dự đoán nhu cầu phục hồi ổn định cũng hỗ trợ giá.
Tuy nhiên lo lắng về căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đã hạn chế đà tăng.
Giá hàng hóa thế giới sáng 9/9

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

36,52

-0,24

-0,65%

Dầu Brent

USD/thùng

39,60

-0,18

-0,45%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

27.060,00

-1.640,00

-5,71%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,38

-0,02

-0,75%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

109,78

-0,50

-0,45%

Dầu đốt

US cent/gallon

107,13

-0,55

-0,51%

Dầu khí

USD/tấn

309,75

+0,25

+0,08%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

38.690,00

-1.660,00

-4,11%

Vàng New York

USD/ounce

1.934,40

-8,80

-0,45%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.572,00

-36,00

-0,54%

Bạc New York

USD/ounce

26,86

-0,14

-0,50%

Bạc TOCOM

JPY/g

90,50

-1,90

-2,06%

Bạch kim

USD/ounce

904,52

+1,83

+0,20%

Palađi

USD/ounce

2.282,96

-6,29

-0,27%

Đồng New York

US cent/lb

302,10

-0,40

-0,13%

Đồng LME

USD/tấn

6.668,00

-121,00

-1,78%

Nhôm LME

USD/tấn

1.792,00

-5,50

-0,31%

Kẽm LME

USD/tấn

2.417,00

-92,50

-3,69%

Thiếc LME

USD/tấn

18.046,00

-284,00

-1,55%

Ngô

US cent/bushel

360,25

-1,50

-0,41%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

544,25

0,00

0,00%

Lúa mạch

US cent/bushel

268,50

0,00

0,00%

Gạo thô

USD/cwt

12,45

-0,01

-0,08%

Đậu tương

US cent/bushel

970,00

-3,00

-0,31%

Khô đậu tương

USD/tấn

314,30

-0,30

-0,10%

Dầu đậu tương

US cent/lb

33,12

-0,28

-0,84%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

509,60

-1,30

-0,25%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.555,00

-40,00

-1,54%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

132,10

-1,90

-1,42%

Đường thô

US cent/lb

12,04

+0,11

+0,92%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

117,75

-2,15

-1,79%

Bông

US cent/lb

63,84

-0,18

-0,28%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

612,50

-29,00

-4,52%

Cao su TOCOM

JPY/kg

134,20

-2,00

-1,47%

Ethanol CME

USD/gallon

1,31

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg