Phiên thứ Năm (14/11), giá dầu tăng nhẹ trong khi cà phê đạt mức cao nhất 13 năm.
Năng lượng: Giá dầu phiên thứ 5 biến động khá mạnh, kết thúc phiên không thay đổi nhiều so với cuối phiên trước do lượng dự trữ nhiên liệu của Mỹ giảm mạnh át đi lo ngại nguồn cung dư thừa và nhu cầu thấp do USD mạnh lên.
Kết thúc phiên, giá dầu thô Brent tăng 0,28 USD, hay 0,4%, lên 72,56 USD/thùng, trong khi dầu WTI tăng 0,27 USD, hay 0,4%, lên 68,7 USD/thùng. Cả hai loại dầu đã giảm giá trong một khoảng thời gian ngắn lúc giữa phiên.
Tính từ đầu tuần đến nay, giá dầu Brent giảm khoảng 1,7%, trong khi dầu WTI giảm hơn 2% do USD mạnh lên và lo lắng nguồn cung tăng trong bối cảnh tăng trưởng nhu cầu chậm lại.
Cơ quan Thông tin Năng lượng cho biết tồn trữ xăng của Mỹ tuần qua đã giảm 4,4 triệu thùng, cao hơn nhiều so với kỳ vọng của các nhà phân tích trong cuộc thăm dò của Reuters là tăng 600.000 thùng. Lượng tồn trữ 206,9 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 8 tháng 11 là mức thấp nhất kể từ tháng 11 năm 2022.
Tồn trữ sản phẩm chưng cất, gồm dầu diesel và dầu đốt, giảm 1,4 triệu thùng so với dự đoán tăng 200.000 thùng. Giá xăng kỳ hạn của Mỹ đóng cửa tăng 0,8%, trong khi dầu đốt giảm khoảng 0,3% sau khi tăng một thời gian ngắn do số liệu này.
Tuy nhiên, hạn chế đà tăng của giá dầu là dự trữ dầu thô của Mỹ tăng 2,1 triệu thùng trong tuần trước, nhiều hơn so với dự đoán của giới phân tích tăng 750.000 thùng.
T Giá xăng tương lai RBc1 của Mỹ tăng 0,8%, trong khi giá dầu sưởi tương lai đóng cửa giảm khoảng 0,3% sau khi tăng đột biến trong thời gian ngắn do dữ liệu.
Tuy nhiên, hạn chế mức tăng giá dầu là mức tăng 2,1 triệu thùng trong lượng dự trữ dầu thô của Mỹ vào tuần trước, cao hơn nhiều so với kỳ vọng của các nhà phân tích là mức tăng 750.000 thùng.
Trong khi đó, Cơ quan Năng lượng Quốc tế dự báo nguồn cung dầu toàn cầu sẽ vượt nhu cầu trong năm 2025 ngay cả khi OPEC+ vẫn cắt giảm sản lượng, do sản lượng ngày càng tăng từ Mỹ và các nhà sản xuất bên ngoài vượt xa nhu cầu chậm chạp.
Cơ quan có trụ sở tại Paris đã nâng dự báo tăng trưởng nhu cầu năm 2024 thêm 60.000 thùng/ngày lên 920.000 thùng/ngày và giữ nguyên dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu năm 2025 ở mức 990.000 thùng/ngày.
USD tăng mạnh lên mức cao nhất một năm, và có ngày tăng thứ 5 liên tiếp bởi lợi suất trái phiếu tăng và chiến thắng trong cuộc bầu cử của Thổng thống đắc cử Donald Trump tại Mỹ. Đồng bạc xanh mạnh khiến dầu được định giá bằng USD trở nên đắt hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác, điều này có thể làm giảm nhu cầu.
Kelvin Wong, nhà phân tích thị trường cấp cao tại OANDA cho biết, lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm của Mỹ tăng cũng làm tăng thêm lo ngại về nhu cầu. "(Điều này) làm tăng khả năng Fed sẽ giảm tốc độ cắt giảm lãi suất trong năm 2025 (và) nhìn chung, có ít thanh khoản hơn để thúc đẩy nhu cầu dầu tăng", ông nói thêm.
OPEC hôm thứ Ba đã cắt giảm dự báo về tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu trong năm nay và năm sau, nhấn mạnh vào điểm yếu về nhu cầu ở Trung Quốc, Ấn Độ và các khu vực khác, là lần điều chỉnh giảm thứ tư liên tiếp của nhóm sản xuất này trong triển vọng năm 2024.
Nhà chiến lược dầu mỏ Giovanni Staunovo của UBS Switzerland AG dự báo giá dầu Brent sẽ trung bình 80 USD trong năm 2025, giảm so với 85 USD/thùng dự báo hồi cuối tháng 9, do ước tính tăng trưởng nhu cầu giảm, đặc biệt từ Trung Quốc.
Kim loại quý: Giá vàng giảm xuống mức thấp nhất hai tháng bởi USD mạnh, mặc dù các nhà giao dịch vẫn tin vào khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất trong tháng 12 sau số liệu kinh tế mới nhất của Mỹ.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 0,1% xuống 2.570,05 USD/ounce, chạm mức thấp nhất kể từ ngày 12/9; vàng giao sau giảm 0,5% xuống 2.572,9 USD/ounce.
Chỉ số USD tiếp tục tăng mạnh lên mức cao nhất một năm khiến vàng đắt hơn cho người mua bằng các ngoại tệ khác.
Với điều kiện trên thị trường lao động Mỹ như hiện nay, dự kiến Fed sẽ cắt giảm lãi suất lần thứ ba vào tháng tới, ngay cả khi số liệu cho thấy tiến trình giảm lạm phát đã chậm lại. Thị trường hiện dự đoán 76% khả năng Fed cắt giảm lãi suất 25 điểm cơ bản trong tháng 12.
Sau chiến thắng áp đảo của đảng Cộng hòa Mỹ trong cuộc bầu cử ngày 5 tháng 11, giá vàng đã giảm hơn 170 USD khi mức thuế mà Tổng thống đắc cử Trump đề xuất được coi là yếu tố tiềm tàng của lạm phát, điều này có thể thúc đẩy Fed giảm tốc độ cắt giảm lãi suất.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,5% lên 30,48 USD/ounce sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 12 tháng 9; bạch kim giảm 0,1% xuống 936,94 USD, trong khi palladium tăng 0,8% lên 941,00 USD.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng tiếp tục giảm phiên thứ 5 xuống mức thấp nhất 3 tháng.
Đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London LME trong phiên có lúc giảm xuống 8.867 USD/tấn, thấp nhất kể từ ngày 12/8; kết thúc phiên giảm 0,5% xuống 8.998,5 USD/tấn.
Nhiều nhà giao dịch đang tận dụng khoảng cách giá giữa LME và sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (ShFE) của Trung Quốc để kiếm lời. Chiến lược gia kim loại cấp cao Alastair Munro của Marex cho biết đã có khá nhiều hoạt động mua-bán trong vài ngày qua.
Xu hướng giá giảm có thể bị hạn chế khi người mua đồng giao ngay quay trở lại sàn LME sau nhiều ngày giá giảm liên tiếp.
Về yếu tố vĩ mô, giá kim loại vẫn bị áp lực do đồng USD mạnh. USD hiện đang ở mức cao nhất trong một năm, khiến kim loại trở nên đắt đỏ hơn đối với những người mua bằng các ngoại tệ khác.
USD tăng cũng do kỳ vọng ngày càng tăng về việc Cục Dự trữ Liên bang sẽ giảm tốc độ cắt giảm lãi suất trong năm tới vì lạm phát vẫn ở mức cao. Việc duy trì lãi suất ở mức cao sẽ hỗ trợ hoạt động mua USD.
Về những kim loại khác, giá kẽm đã giảm xuống mức thấp nhất hai tháng, là 2.867,5 USD, do thị trường thép ở Trung Quốc vẫn yếu làm giảm nhu cầu mạ kẽm. Giá kẽm gần đây nhất đã giảm 2,9% xuống còn 2.893,7 USD. Giá nhôm trên sàn LME giảm 0,5% xuống 2.518,5 USD/tấn, niken giảm 0,5% xuống 15.645 USD, chì giảm 2,4% xuống 1.961 USD và thiếc giảm 2,6% xuống 28.900 USD.
Giá quặng sắt giảm xuống mức thấp nhất 3 tuần, do nguồn cung duy trì ở mức trong bối cảnh triển vọng thị trường thép yếu, mặc dù các biện pháp kích thích mới tại Trung Quốc đối với lĩnh vực bất động sản đã hạn chế đà giảm.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc đóng cửa giảm 1,37% xuống 756 CNY (104,38 USD)/tấn. Hợp đồng này trước đó đã xuống mức yếu nhất kể từ 24/10 tại 751,5 CNY. Quặng sắt kỳ hạn tháng 12 tại Singapore giảm 1,81% xuống 98,72 USD/tấn.
Giá các sản phẩm thép cũng giảm. Tại Thượng Hải, thép thanh giảm khoảng 0,9%, thép cuộn cán nóng giảm gần 1%, dây thép cuộn giảm 0,3% và thép không gỉ giảm 0,8%.
Xuất khẩu từ kho cảng Hedland hàng đầu của Australia đạt tổng cộng 45,6 triệu tấn trong tháng 10, đưa tổng mức xuất khẩu năm nay lên cao nhất cùng kỳ trong 4 năm trở lại đây.
Chính phủ Australia dự kiến xuất khẩu tăng 1,9% lên 908 triệu tấn trong năm 2024.
Công ty tư vấn Mysteel của Trung Quốc cho biết tồn trữ quặng sắt ngày càng tăng ở các cảng lớn của Trung Quốc trái ngược với giá quặng sắt nhập khẩu và nhu cầu yếu từ đầu năm nay.
Đối với các nhà sản xuất thép Trung Quốc, năm nay là năm khó khăn vì giá thép thường xuyên khiến lợi nhuận giảm trong bối cảnh ngành bất động sản suy thoái kéo dài.
Trung Quốc đã công bố các ưu đãi thuế với giao dịch nhà đất trong ngày 13/11 nhằm mục đích hỗ trợ thị trường bất động sản khó khăn, hiện vẫn là nơi tiêu thụ thép lớn nhất của nước này.
Nông sản: Giá ngô và đậu tương Mỹ giảm phiên thứ 4 liên tiếp do các nhà giao dịch lo ngại rằng những thay đổi về chính sách nhiên liệu sinh học dưới thời chính quyền tổng thống Mỹ sắp tới của đảng Cộng hòa Donald Trump sẽ làm giảm nhu cầu trong nước.
Trong khi đó, giá lúa mì giảm khi đồng USD tiếp tục đà tăng gây áp lực lên tâm lý xuất khẩu.
Kết thúc phiên, trên sàn Chicago, giá đậu tương giảm 14-1/4 cent xuống 9,93-1/2 USD/bushel, trong khi ngô giảm 6-1/4 cent xuống 4,20-1/4 USD/bushel và lúa mì giảm 9-3/4 cent xuống còn 5,31-1/4 USD, đã chạm mức thấp chưa từng thấy kể từ ngày 27 tháng 8.
Giá cà phê arabica trên sàn ICE đạt mức cao nhất trong 13 năm khi các nhà đầu tư đánh giá lại quan điểm của họ về vụ mùa năm tới tại Brazil và ngày càng lo ngại về vụ mùa của Việt Nam, quốc gia sản xuất cà phê robusta hàng đầu thế giới.
Các đại lý địa phương tại Brazil cho biết giá arabica thực tế đang tăng vọt do lượng hàng tồn kho hạn chế và lo ngại về vụ mùa năm sau. Mặc dù có mưa gần đây nhưng độ ẩm của đất vẫn thấp.
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2025 đóng cửa tăng 0,082 US cent hay 3% lên 2,794 USD/lb sau khi đạt mức cao nhất kể từ đầu tháng 9/2011 tại 2,85 USD. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2025 tăng 145 USD hay 3,1% lên 4.777 USD/tấn, đạt mức cao nhất trong một tháng.
Giá cà phê tại Việt Nam tăng trong tuần này sau khi giá toàn cầu tăng và khả năng thời tiết bất lợi, trong khi nguồn cung giảm tại Indonesia.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3 tăng 0,39 cent, hay 1,8%, lên 21,56 cent/lb, trong khi đường trắng kỳ hạn tháng 12 tăng 7,10 USD, hay 1,3%, lên 545,30 USD/tấn.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản duy trì ở mức gần thấp nhất 3 tháng do nhà đầu tư cân nhắc tác động của khả năng căng thẳng thương mại gia tăng ở Trung Quốc so với đồng JPY suy yếu.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 4/2025 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa ổn định tại 344,0 JPY (2,21 USD)/kg, đóng cửa thấp nhất kể từ ngày 23/8. Tại Thượng Hải cao su kỳ hạn tháng 1/2025 đóng cửa giảm 215 CNY hay 1,21% xuống 17,620 CNY (2.433,16 USD)/tấn. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 11 trên sàn giao dịch Singapore giảm 2,7% xuống 185,5 US cent/kg.
Các thương nhân và công ty lốp xe ô tô có thể sẽ giảm tốc độ mua cao su dự trữ do lo ngại tác động từ những mức thuế mà Trump đề xuất. Ông Trump đã tuyên bố sẽ áp dụng mức thuế suất 60% đối với hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc vào Mỹ.
Cập nhật giá hàng hóa:

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

68,32

-0,38

-0,55%

Dầu Brent

USD/thùng

72,17

-0,39

-0,54%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

197,00

-1,17

-0,59%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,77

-0,02

-0,68%

Dầu đốt

US cent/gallon

220,02

-1,21

-0,55%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.571,10

-1,80

-0,07%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.568,04

+3,19

+0,12%

Bạc (Comex)

USD/ounce

30,50

-0,07

-0,23%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

940,85

-0,09

-0,01%

Đồng (Comex)

US cent/lb

409,95

+1,20

+0,29%

Đồng (LME)

USD/tấn

8.990,00

-57,00

-0,63%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.516,50

-14,00

-0,55%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.942,50

-38,50

-1,29%

Thiếc (LME)

USD/tấn

28.932,00

-731,00

-2,46%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

431,25

+0,50

+0,12%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

550,50

+2,25

+0,41%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

361,00

+4,50

+1,26%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

14,72

+0,05

+0,31%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

988,75

+1,25

+0,13%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

287,20

+0,20

+0,07%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

44,69

+0,13

+0,29%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

630,80

+3,20

+0,51%

Cacao (ICE)

USD/tấn

8.506,00

+535,00

+6,71%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

279,40

+8,20

+3,02%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

21,56

+0,39

+1,84%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

485,95

+15,25

+3,24%

Bông (ICE)

US cent/lb

70,47

-0,09

-0,13%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

188,40

0,00

0,00%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)