Năng lượng: Giá dầu thô tăng sau khi dữ liệu cho thấy thị trường việc làm của Mỹ ổn định, làm gia tăng kỳ vọng rằng Cục Dự trữ Liên bang (Fed) có thể bắt đầu cắt giảm lãi suất vào mùa thu, điều đó sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế và từ đó làm tăng nhu cầu dầu mỏ.
Kết thúc phiên, giá dầu Brent tăng 52 US cent, tương đương 0,6%, lên 83,27 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ của Mỹ (WTI) tăng 60 cent, tương đương 0,8%, lên 79,23 USD/thùng.
Số người Mỹ nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp mới đã giảm trong tuần trước, cho thấy thị trường lao động nước này cơ bản vẫn mạnh mẽ.
Nhà phân tích John Kilduff của Again Capital cho biết: “Mặc dù số lượng đơn xin trợ cấp thất nghiệp ở mức thấp, nhưng vẫn đủ để cho phép Fed tham gia và cắt giảm lãi suất”. “Xu hướng việc làm mạnh mẽ cho thấy nhu cầu xăng tăng mạnh trong thời gian tới”.
Dữ liệu lạm phát tháng 4 của Mỹ thấp hơn dự kiến cũng làm tăng kỳ vọng của thị trường về việc Fed sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9, điều này có thể làm giảm sức mạnh của đồng đô la và làm cho dầu định giá bằng đồng bạc xanh trở nên rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Cổ phiếu, có xu hướng di chuyển song song với giá dầu, tăng nhờ hy vọng cắt giảm lãi suất, với chỉ số Dow lần đầu tiên đạt mức cao nhất mọi thời đại là 40.000 điểm.
Giá dầu Brent đã chạm mức thấp nhất trong ngày là 81,05 USD vào thứ Tư - mức thấp nhất mà hợp đồng tương lai tháng kỳ hạn 1 tháng được giao dịch kể từ ngày 26 tháng 2. Sau đó, giá phục hồi sau dữ liệu lạm phát và báo cáo của chính phủ cho thấy tồn kho dầu thô, xăng và sản phẩm chưng cất của Mỹ tuần trước giảm do hoạt động lọc dầu và nhu cầu nhiên liệu gia tăng.
Tuy nhiên, nhu cầu xăng của Mỹ tiếp tục giảm xuống dưới 9 triệu thùng mỗi ngày trong tuần thứ sáu liên tiếp, thấp hơn mức điển hình vào mùa lái xe mùa hè, chính thức bắt đầu từ Ngày Tưởng niệm vào cuối tháng.
Tại Trung Đông, các cuộc đàm phán ngừng bắn do Qatar và Ai Cập làm trung gian đang rơi vào bế tắc khi Hamas yêu cầu chấm dứt các cuộc tấn công và Israel từ chối cho đến khi nhóm này bị tiêu diệt.
Kim loại quý: Giá vàng giảm khi đồng USD hồi phục, mặc dù các dấu hiệu lạm phát Mỹ hạ nhiệt đã củng cố hy vọng Fed sẽ cắt giảm lãi suất trong năm nay và giữ vàng thỏi gần mức cao nhất trong vòng một tháng.
Kết thúc phiên, vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 2.379,60 USD/ounce, sau khi có lúc chạm mức cao nhất kể từ ngày 19/4; phiên liền trước giá tăng hơn 1%.
Trong khi đó, giá vàng kỳ hạn tháng 6 giảm 0,4% xuống 2385,50 USD/ounce.
Jim Wyckoff, nhà phân tích cấp cao thuộc Kitco Metals, cho biết: “Thị trường vàng đang chứng kiến một số áp lực chốt lời thông thường, thực hiện bởi các nhà giao dịch hợp đồng tương lai kỳ hạn gần sau khi giá tăng gần đây, trong khi chỉ số USD tăng cũng làm gia tăng áp lực đó”.
Đồng USD đã tăng 0,2% so với các đồng tiền đối tác chủ chốt sau khi chạm mức thấp nhất trong nhiều tháng ở phiên trước đó, khi dữ liệu cho thấy giá tiêu dùng của Mỹ trong tháng 4 tăng ít hơn dự kiến.
Đồng USD mạnh hơn khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với những người nắm giữ tiền tệ khác.
Trong khi đó, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương New York John Williams cho biết những thông tin tích cực xung quanh vấn đề lạm phát hạ nhiệt không đủ để kêu gọi ngân hàng trung ương Mỹ sớm cắt giảm lãi suất. Lãi suất hạ làm giảm chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng thỏi - không sinh lời.
Theo công cụ FedWatch của CME, những người tham gia thị trường đang dự đoán khoảng 68% khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9.
Cơ quan phân tích BMI của Fitch Solutions cho biết: “Đồng đô la Mỹ yếu đi, lãi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm cũng như căng thẳng địa chính trị gia tăng đã hỗ trợ vàng trong tuần qua và chúng tôi kỳ vọng giá vàng sẽ duy trì trên 2.250 USD/oz trong những tháng tới”.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,2% xuống 29,63 USD/ounce sau khi có lúc chạm mức cao nhất kể từ tháng 2/2021; palladium giảm 2% xuống 989,62 USD; trong khi bạch kim giảm 0,3% xuống 1.060,90 USD, sau khi có lúc đạt mức cao nhất trong một năm.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng Mỹ dao động gần mức cao kỷ lục khi người mua kỳ vọng giá sẽ tăng thêm nữa.
Kết thúc phiên này, giá đồng trên sàn New York - CME giảm 1,4% xuống 4,9025 USD/lb, sau khi có lúc đạt mức cao kỷ lục 5,1775 USD/lb, tương đương 11.414 USD/tấn.
Các nhà kinh doanh hàng hóa bao gồm Trafigura và IXM, cũng như các nhà sản xuất Trung Quốc, đang tìm mua đồng trên thị trường vật chất để giao hàng theo hợp đồng đã ký trên sàn CME.
Giá đồng trên sàn CME đã tăng 27% từ đầu năm tới nayy, vượt xa mức tăng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) và tạo cơ hội cho các nhà giao dịch mua trên LME và bán trên CME.
Nhưng việc di chuyển kim loại từ sàn giao dịch này sang sàn giao dịch khác sẽ rất khó khăn, vì một nửa số đồng có sẵn trong hệ thống LME có nguồn gốc từ Nga và không thể được chuyển vào CME.
Giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên sàn LME chốt phiên tăng 1,9% lên 10.417 USD/tấn, tăng 22% từ đầu năm đến nay.
Về những kim loại khác, giá nhôm trên sàn LME giảm 0,4% xuống 2.589,5 USD/tấn; niken tăng 2,5% lên 19.970 USD, chì cũng tăng 1% lên 2.292 USD, thiếc tăng 1,2% lên 33.800 USD, trong khi kẽm giảm 0,5% xuống 2.962 USD.
Giá các sản phẩm thép cũng tăng trong phiên này, với thép cây tăng 2,38%, thép cuộn cán nóng tăng 1,86%, thanh thép tăng 1,04% và thép không gỉ tương đối ổn định.
Giá quặng sắt tăng trở lại khi có tin chính phủ Trung Quốc xem xét mua số nhà mới xây còn tồn đọng chưa bán được của tư nhân, giúp cải thiện tâm lý của nhà đầu tư đối với các nguyên liệu sản xuất thép.
Kết thúc phiên, giá quặng sắt giao tháng 9 tại Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) tăng 2,56% lên 881 nhân dân tệ (122,09 USD)/tấn; quặng sắt kỳ hạn tháng 6/2024 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 2,46% lên 116,5 USD/tấn.
Bloomberg News hôm thứ Tư đưa tin Trung Quốc đang xem xét kế hoạch cho chính quyền địa phương trên toàn quốc mua hàng triệu ngôi nhà chưa bán được.
Quận Linan ở phía đông thành phố Hàng Châu hôm thứ Ba đã đưa ra thông báo rằng chính quyền địa phương sẽ mua căn hộ mới từ các nhà phát triển bất động sản tư nhân để làm nhà cho thuê công cộng.
Các nhà phân tích cho biết, việc tiêu thụ các sản phẩm thép nhanh hơn dự kiến trong tuần này cũng đã củng cố tâm lý thị trường. Tổng tồn kho của 5 sản phẩm thép chính tính đến ngày 16/5 đã giảm gần 4% so với tuần trước xuống mức thấp nhất trong 4 tháng là 18,13 triệu tấn, dữ liệu từ công ty tư vấn Mysteel cho thấy.
Nông sản: Giá đậu tương Mỹ tăng khi xuất hiện những lo ngại về việc lũ lớn ở miền nam Brazil, mặc dù nhu cầu đậu tương của các nhà các nhà chế biến Mỹ thấp hơn dự kiến.
Trong khi đó, ngô và lúa mì giảm do doanh số xuất khẩu của Mỹ thấp.
Kết thúc phiên, giá đậu tương kỳ hạn tháng 7 tăng 2-3/4 cent lên 12,16-1/4 USD/bushel; lúa mì giao cùng kỳ hạn giảm 2,5 US cent xuống 6,63-1/4 USD/bushel, trong khi ngô giảm 5,5 US cent xuống 4,57 USD/bushel.
Bộ Nông nghiệp Mỹ báo cáo doanh số xuất khẩu lúa mì vụ mới của Mỹ tuần trước ở mức 304.300 tấn và ngô vụ cũ của Mỹ ở mức 742.200 tấn, cả hai đều gần mức thấp so với kỳ vọng. Doanh số xuất khẩu đậu tương vụ cũ hàng tuần của Mỹ là 265.700 tấn, cũng thấp hơn kỳ vọng.
Giá đường thô kỳ hạn trên sàn ICE giảm xuống mức thấp nhất 18 tháng do sản lượng tại Trung-Nam Brazil tiếp tục vượt xa tốc độ của vụ trước. Đường thô kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 0,32 cent, tương đương 1,7%, xuống 18,33 cent/lb sau khi giảm xuống mức thấp nhất 18 tháng là 17,95 US cent. Đường trắng kỳ hạn tháng 8 giảm 1,1% xuống 536,20 USD/tấn.
Các đại lý cho biết vụ thu hoạch ở Trung Nam Brazil bắt đầu thuận lợi cũng góp phần gây áp lực giảm giá.
Tập đoàn UNICA hôm thứ Tư báo cáo sản lượng đường ở khu vực Trung Nam Brazil trong nửa cuối tháng 4 đạt tổng cộng 1,84 triệu tấn, tăng 84,25% so với cùng kỳ năm trước.
Giá cà phê Robusta kỳ hạn tháng 7 tăng 18 USD, tương đương 0,5%, lên 3.420 USD/tấn; cà phê arabica giao cùng kỳ hạn giảm 0,8% xuống 1,979 USD/lb.
Các đại lý cho biết những cơn mưa gần đây tại Việt Nam đã gây áp lực lên giá, mặc dù vẫn có chút lo ngại rằng thời tiết khô hạn vừa qua có thể tác động tiêu cực đến mùa màng.
Giá cà phê tại Việt Nam tuần này đã lấy lại mức 100.000 đồng/kg do lo ngại điều kiện thời tiết có thể ảnh hưởng đến vụ mùa tiếp theo, trong khi mức cộng giá cà phê Indonesia tăng do nguồn cung trong nước hạn chế.
Người trồng cà phê ở Tây Nguyên bán cà phê nhân xô với giá 100.400-101.500 đồng (3,95 - 3,99 USD) mỗi kg, so với 94.000-97.000 đồng của tuần trước. Cà phê Robusta giao tháng 7 giảm 31 USD xuống 3.402 USD/tấn. Các thương nhân chào bán 5% cà phê robusta loại 2 màu đen và vỡ ở mức cộng 600 - 700 USD/tấn so với hợp đồng tháng 7 trên sàn London.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng trong bối cảnh lo ngại thời tiết xấu ở Thái Lan và giá dầu tăng, mặc dù đồng yên mạnh hơn đã hạn chế mức tăng.
Hợp đồng cao su giao tháng 10 trên sàn Osaka đóng cửa tăng 5,3 yên, tương đương 1,67%, lên 322,5 yên (2,09 USD)/kg, mức đóng cửa cao nhất kể từ ngày 12/4. Hợp đồng này tăng phiên thứ tư liên tiếp, đánh dấu đà tăng dài nhất kể từ ngày 1/4.
Hợp đồng cao su giao tháng 9 trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE) tăng 330 nhân dân tệ lên14.710 nhân dân tệ (2.038,30 USD)/tấn. Hợp đồng cao su giao tháng 6 trên sàn SICOM chốt phiên ở mức 168,7 US cent/kg, tăng 1,57%.
Cơ quan khí tượng Thái Lan cảnh báo về "điều kiện thời tiết khắc nghiệt", "mưa lớn đến rất to" và "lũ quét" từ ngày 16-21/5, có khả năng gây thiệt hại mùa màng.
Đồng yên Nhật tăng mạnh 0,6% lên 153,68 JPY/USD, khiến cho những tài sản định giá bằng đồng Yên trở nên khó tiếp cận hơn đối với người mua ở nước ngoài.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
79,29
|
+0,06
|
+0,08%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
83,44
|
+0,17
|
+0,20%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
256,15
|
+2,37
|
+0,93%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,51
|
+0,02
|
+0,64%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
246,68
|
+2,31
|
+0,95%
|
Vàng (Comex)
|
USD/ounce
|
2.381,20
|
-4,30
|
-0,18%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
2.376,75
|
-0,11
|
0,00%
|
Bạc (Comex)
|
USD/ounce
|
29,78
|
-0,10
|
-0,34%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
1.058,67
|
-4,44
|
-0,42%
|
Đồng (Comex)
|
US cent/lb
|
489,90
|
+2,20
|
+0,45%
|
Đồng (LME)
|
USD/tấn
|
10.424,00
|
+205,00
|
+2,01%
|
Nhôm (LME)
|
USD/tấn
|
2.586,50
|
-12,00
|
-0,46%
|
Kẽm (LME)
|
USD/tấn
|
2.960,00
|
-16,00
|
-0,54%
|
Thiếc (LME)
|
USD/tấn
|
33.729,00
|
+319,00
|
+0,95%
|
Ngô (CBOT)
|
US cent/bushel
|
458,75
|
+1,75
|
+0,38%
|
Lúa mì (CBOT)
|
US cent/bushel
|
664,50
|
+1,25
|
+0,19%
|
Lúa mạch (CBOT)
|
US cent/bushel
|
385,50
|
-0,50
|
-0,13%
|
Gạo thô (CBOT)
|
USD/cwt
|
19,02
|
-0,08
|
-0,42%
|
Đậu tương (CBOT)
|
US cent/bushel
|
1.225,25
|
+9,00
|
+0,74%
|
Khô đậu tương (CBOT)
|
USD/tấn
|
371,80
|
+4,10
|
+1,12%
|
Dầu đậu tương (CBOT)
|
US cent/lb
|
44,38
|
-0,14
|
-0,31%
|
Hạt cải (ICE)
|
CAD/tấn
|
651,30
|
-0,20
|
-0,03%
|
Cacao (ICE)
|
USD/tấn
|
7.393,00
|
-450,00
|
-5,74%
|
Cà phê (ICE)
|
US cent/lb
|
197,90
|
-1,50
|
-0,75%
|
Đường thô (ICE)
|
US cent/lb
|
18,33
|
-0,32
|
-1,72%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)
|
US cent/lb
|
438,50
|
+10,00
|
+2,33%
|
Bông (ICE)
|
US cent/lb
|
76,08
|
-0,16
|
-0,21%
|
Lông cừu (ASX)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ (CME)
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su Singapore
|
US cent/kg
|
169,90
|
-0,70
|
-0,41%
|
Ethanol (CME)
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|