Diễn biến tỷ giá USD và các dữ liệu kinh tế Trung Quốc đã tác động đến thị trường hàng hóa trong phiên này. Theo đó, USD dao động gần mức cao nhất trong một tháng sau khi b các quan chức Cục Dự trữ Liên bang Mỹ hạ thấp khả năng sẽ sớm cắt giảm lãi suất. Lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm của Mỹ cũng tăng. USD mạnh làm giảm nhu cầu đối với những hàng hóa tính bằng đồng tiền này.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục biến động nhẹ do các yếu tố tác động trái chiều: đợt lạnh khắc nghiệt làm gián đoạn một số hoạt động sản xuất dầu của Mỹ và tăng trưởng kinh tế đáng thất vọng ở Trung Quốc làm dấy lên lo ngại về nhu cầu năng lượng.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu thô Brent giảm 41 US cent xuống 77,88 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 16 cent lên 72,56 USD.
Tại Bắc Dakota, bang sản xuất dầu hàng đầu của Mỹ, nhiệt độ dưới 0 độ F đã khiến sản lượng dầu ở đó giảm 650.000 đến 700.000 thùng mỗi ngày (bpd), tương đương hơn một nửa sản lượng thông thường của bang này.
Andrew Lipow, chủ tịch của Lipow Oil Associates, cho biết những lo ngại về nguồn cung đã khiến giá dầu thô kỳ hạn của Mỹ hồi phục chút ít vào cuối phiên, sau khi giảm hơn 1 USD/thùng trước đó.
Theo các nguồn tin thị trường trích dẫn số liệu của Viện Dầu mỏ Mỹ hôm thứ Tư, dự trữ dầu thô nội địa của Mỹ đã tăng 480.000 thùng trong tuần trước. Dữ liệu của chính phủ Mỹ về hàng tồn kho sẽ được công bố vào thứ Năm.
Trong khi đó, nền kinh tế Trung Quốc trong quý 4 tăng trưởng 5,2% so với cùng kỳ năm trước, không đạt kỳ vọng của các nhà phân tích và đặt ra câu hỏi về dự báo nhu cầu của Trung Quốc sẽ thúc đẩy tăng trưởng dầu toàn cầu vào năm 2024.
Priyanka Sachdeva, nhà phân tích thị trường cấp cao của Phillip Nova, cho biết dữ liệu kinh tế “không chấm dứt được những cơn gió ngược về nhu cầu dầu thô, triển vọng của Trung Quốc trong năm 2024 và 2025 vẫn ảm đạm”. “Ngành công nghiệp dầu mỏ ủng hộ quan điểm rằng, mặc dù phục hồi khó khăn, nhu cầu dầu từ Trung Quốc vẫn ổn định và có thể sẽ đạt mức kỷ lục vào năm 2024.”
Tuy nhiên, sản lượng lọc dầu của Trung Quốc năm 2023 đã tăng 9,3% lên mức cao kỷ lục, cho thấy nhu cầu tăng cao ngay cả khi con số thấp hơn kỳ vọng của một số nhà phân tích. Các dấu hiệu khác về nhu cầu ổn định của Trung Quốc cũng đã xuất hiện.
Các nhà đầu tư để mắt đến xung đột hải quân và không quân ở Biển Đỏ, nơi cho đến nay không hỗ trợ giá dầu mặc dù ngày càng lo ngại về việc các tàu chở dầu phải tạm dừng hoặc định tuyến lại, làm tăng chi phí vận chuyển và giao hàng chậm lại.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) kỳ vọng thị trường dầu mỏ sẽ ở "vị trí thoải mái và cân bằng" trong năm nay, bất chấp căng thẳng ở Trung Đông trong bối cảnh nguồn cung tăng và triển vọng tăng trưởng nhu cầu chậm lại, giám đốc điều hành Fatih Birol nói tại Diễn đàn Thị trường Toàn cầu của Reuters.
OPEC lạc quan giữ nguyên dự báo về nhu cầu dầu toàn cầu tăng trưởng tương đối mạnh vào năm 2024. OPEC cho biết năm 2025 sẽ mang lại sự gia tăng "mạnh mẽ" trong nhu cầu sử dụng dầu, dẫn đầu là Trung Quốc và Trung Đông.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất hơn một tháng khi dữ liệu kinh tế mạnh mẽ thúc đẩy USD và trái phiếu kho bạc Mỹ tăng và làm giảm kỳ vọng của thị trường về việc Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 3.
Vàng giao ngay kết thúc phiên giảm 1,2% xuống 2.003,89 USD/ounce, thấp nhất kể từ ngày 13 tháng 12. Trong phiên liền trước, vàng giao ngay đã giảm 1,3%, mức giảm trong một ngày lớn nhất kể từ ngày 4 tháng 12 năm 2023. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 2 giảm 1,2% xuống 2006,5 USD.
Doanh số bán lẻ của Mỹ tăng hơn dự kiến trong tháng 12, giúp nền kinh tế bước vào năm mới một cách vững chắc.
Bob Haberkorn, chiến lược gia thị trường cấp cao của RJO Futures, cho biết: “Thị trường đang nghi ngờ về việc liệu Fed có sớm cắt giảm lãi suất, điều này đang gây áp lực lên giá vàng. Với việc đồng đô la mạnh và việc cắt giảm cần có thời gian, vàng khó có thể giữ được đà tăng”.
“Tuy nhiên, rủi ro địa chính trị sẽ tiếp tục tạo cơ sở cho giá và giữ vàng quanh mức 2.000 USD.”
Thống đốc Fed Christopher Waller hôm thứ Ba nói rằng ngân hàng trung ương không nên vội vàng cắt giảm lãi suất cho đến khi lạm phát duy trì lâu ở mức thấp. Theo công cụ CME FedWatch, các nhà giao dịch hiện đang định giá khoảng 53% khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 3.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 1,7% xuống 22,52 USD/ounce và bạch kim giảm 1,3% xuống 883,02 USD. Trong một báo cáo công bố vào thứ Ba, Bank of America cho biết có những dấu hiệu đáng khích lệ về nhu cầu thương mại đối với bạc, điều này có thể thu hút các nhà đầu tư, củng cố quan điểm mang tính xây dựng của họ về kim loại này cho năm 2024.
Giá palladium phiên này giảm 2,1% xuống còn 916,82 USD, đánh dấu mức thấp nhất kể từ năm 2018. Các nhà phân tích cho biết tốc độ bạch kim thay thế paladi trong sản xuất chất xúc tác tự động đang chậm lại do 2 kim loại đang tiến gần đến mức giá tương đương.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm xuống mức thấp nhất hơn một tháng do lo lắng về nền kinh tế Trung Quốc sau số liệu đáng thất vọng và các nhà đầu tư chấp nhận triển vọng cắt giảm lãi suất của Fed.
Trên Sàn giao dịch kim loại London (LME), giá đồng giao sau ba tháng kết thúc phiên giảm 1% xuống 8.274 USD/tấn sau khi có lúc xuống 8.258 USD, mức yếu nhất kể từ ngày 7 tháng 12.
Giá đồng tương lai trên sàn Comex của Mỹ giảm 0,9% xuống 3,73 USD/lb.
Hầu hết các kim loại khác trên sàn LME cũng giảm. Nhôm giảm 1,6% xuống 2.178,50 USD/tấn, kẽm giảm 3,1% xuống 2.468 USD, niken giảm 0,4% xuống 16.090 USD, chì giảm 2,2% xuống 2.058,50 USD, nhưng thiếc tăng 0,7% lên 25.345 USD. Nhôm và kẽm đều chạm mức thấp nhất trong hơn một tháng.
Trung Quốc, nước tiêu dùng kim loại hàng đầu thế giới, suýt không đạt dự báo về tăng trưởng kinh tế, nhưng đáng lo ngại hơn là những dữ liệu về lĩnh vực bất động sản, chẳng hạn như doanh số bán bất động sản tính theo diện tích sàn giảm 23% trong tháng 12.
Nitesh Shah, chiến lược gia hàng hóa của WisdomTree, cho biết: “Vẫn còn rất nhiều khó khăn về mặt tài sản và có vẻ như lĩnh vực bất động sản chưa thực sự có bất kỳ bước chuyển biến đáng kể nào kể từ khi bắt đầu kích thích”. “Có một dấu hỏi về việc liệu Trung Quốc có thực sự làm tất cả những gì có thể để đưa nền kinh tế đi đúng hướng hay không.”
Các chỉ số khác trong tháng 12 tại Trung Quốc cho thấy doanh số bán lẻ tăng trưởng với tốc độ chậm nhất kể từ tháng 9 và tăng trưởng đầu tư vẫn ở mức ảm đạm, mặc dù sản lượng công nghiệp có dấu hiệu cải thiện.
Sản lượng 10 kim loại màu ở Trung Quốc, bao gồm đồng, nhôm, chì, kẽm và niken, tăng 7,1% lên 74,7 triệu tấn vào năm 2023, mức cao kỷ lục.
Trong nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn tương lai cũng dữ liệu kinh tế yếu kém của Trung Quốc. Quặng sắt kỳ hạn tham chiếu trên Sàn giao dịch Singapore giảm 2,6% xuống 125,95 USD/tấn; quặng sắt kỳ hạn tháng 5 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc (DCE) kết thúc phiên giao dịch giảm 0,75% xuống 926 nhân dân tệ (128,67 USD)/tấn. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,65%, thép cuộn cán nóng giảm 0,5%, thép thanh giảm 0,12% trong khi thép không gỉ tăng 1,41%.
Dữ liệu cho thấy giá nhà mới tháng 12 của Trung Quốc giảm với tốc độ nhanh nhất kể từ tháng 2 năm 2015, đánh dấu tháng giảm thứ sáu liên tiếp, trong bối cảnh lĩnh vực này vẫn đang gặp khó khăn do niềm tin yếu.
Cheng Peng, nhà phân tích của Sinosteel Futures có trụ sở tại Bắc Kinh, cho biết: “Thật khó để thấy sự cải thiện nhẹ về các yếu tố cơ bản của quặng vì giá thép yếu và các nhà máy vẫn đang chịu lỗ”. Tuy nhiên, một số nhà phân tích mong đợi sự hỗ trợ từ việc mua bổ sung hàng trước kỳ nghỉ lễ từ các nhà máy. Các nhà phân tích của Citi cho biết trong một lưu ý rằng các nhà máy thép ở Trung Quốc vẫn cần phải tăng cường dự trữ trong hai đến ba tuần tới để chuẩn bị cho kỳ nghỉ lễ.
Các nhà sản xuất thép Trung Quốc thường dự trữ nguyên liệu từ thị trường giao ngay để đáp ứng nhu cầu sản xuất trong kỳ nghỉ Tết Nguyên đán kéo dài một tuần khi hoạt động hậu cần bị gián đoạn.
Dữ liệu chính thức cho thấy sản lượng thép thô của Trung Quốc vào năm 2023 không thay đổi so với một năm trước đó, ổn định sau hai năm giảm liên tiếp, nhưng không như kỳ vọng là tăng đầu tiên sau ba năm.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương Mỹ gần chạm mức thấp nhất 2 năm vào do vụ mùa đậu tương ở Brazil phát triển tốt nhờ thời tiết được cải thiện, triển vọng sẽ cạnh tranh với Mỹ trên thị trường xuất khẩu toàn cầu. Giá ngô cũng chạm mức thấp nhất trong 3 năm, trong khi lúa mì gần như không thay đổi vào cuối phiên sau khi chạm mức thấp nhất trong 7 tuần vào thứ Ba.
Các thương nhân đang theo dõi tiềm năng sản xuất và xuất khẩu từ Brazil, nhà cung cấp hàng đầu thế giới, do mưa gần đây đã cải thiện điều kiện cho cây đậu tương và ngô của Nam Mỹ.
Kết thúc phiên, đậu tương kết thúc phiên giảm 21-1/2 cent xuống 12,05-3/4 USD/bushel; ngô giảm 1-1/4 US cent xuống 4,42-1/4 USD/bushel, sau khi có lúc giảm xuống 4,40 USD, mức thấp nhất kể từ tháng 12 năm 2020; riêng lúa mì tăng nhẹ thêm 1/2 US cent lên 5,82-1/2 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3 phiên này tăng 0,2% lên 22,57 cent/lb khi thị trường kéo dài đà phục hồi từ mức thấp nhất 9 tháng là 20,03 cent chạm tới vào tháng 12. Đường trắng giao cùng kỳ hạn giảm 0,2% xuống 643,40 USD/tấn.
"(Đường thô) đảo chiều tăng giá có thể thúc đẩy mức tăng thêm 10-15% trong vòng 3 đến 6 tháng tới do sản lượng ở châu Á sụt giảm và những trục trặc tiềm ẩn đối với chương trình xuất khẩu của Trung-Nam Brazil," ngân hàng Citi cho biết trong một ghi chú.
Các đại lý cho biết mùa màng kém ở Thái Lan và Ấn Độ tiếp tục hỗ trợ giá. Các nhà máy Ấn Độ đã sản xuất 14,87 triệu tấn đường từ ngày 1 tháng 10 đến ngày 15 tháng 1, giảm 7% so với năm trước, do sản lượng thấp hơn ở các bang sản xuất chính là Maharashtra và Karnataka.
Giá cà phê Robusta kỳ hạn tháng 3 giảm 1% xuống 3.139 USD/tấn, rời khỏi mức đỉnh 3.177 USD đạt được trong phiên trước đó - mức cao nhất trong ít nhất 16 năm. Cà phê Arabica kỳ hạn tháng 3 giảm 2,9% xuống 1,7985 USD/lb. Các đại lý cho biết nguồn cung cà phê Robusta vẫn khan hiếm do nhu cầu mạnh và một số gián đoạn đối với nguồn cung từ Việt Nam – nhà sản xuất robusta hàng đầu thế giới.
Giá cao su kỳ hạn tại Nhật Bản phục hồi trở lại, đạt mức cao nhất 7 tuần do tăng trưởng kinh tế Trung Quốc tăng chậm hơn dự kiến làm gia tăng tăng kỳ vọng nước tiêu thụ cao su lớn nhất thế giới sẽ đưa ra nhiều biện pháp kích thích hơn nữa.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 6 trên sàn Osaka Exchange (OSE) kết thúc phiên tăng 3,3 yên, tương đương 1,24%, lên 268,7 yên (1,82 USD)/kg, mức đóng cửa cao nhất kể từ ngày 28 tháng 11 năm 2023. Tuy nhiên, hợp đồng cao su giao tháng 5 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) giảm 50 nhân dân tệ, kết thúc ở mức 13.775 nhân dân tệ (1.914,18 USD)/tấn; hợp đồng cao su giao tháng 2 trên nền tảng SICOM của Singapore giảm 0,45% xuống 153,40 US cent/kg.
Trung Quốc sản xuất 3,04 triệu ô tô trong tháng 12, đánh dấu mức tăng 24,5% so với cùng kỳ năm ngoái, dữ liệu từ Cục Thống kê Quốc gia cho thấy hôm thứ Tư. Sản lượng xe sử dụng năng lượng mới trong tháng 12 đạt 1,14 triệu chiếc, tăng 43,7% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá cập nhật:

 

ĐVT

Giá

+/-

z

Dầu thô WTI

USD/thùng

72,92

+0,36

+0,50%

Dầu Brent

USD/thùng

78,10

+0,22

+0,28%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

213,60

+0,06

+0,03%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,89

+0,02

+0,52%

Dầu đốt

US cent/gallon

264,53

-0,83

-0,31%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.010,20

+3,70

+0,18%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.007,67

+1,42

+0,07%

Bạc (Comex)

USD/ounce

22,74

+0,07

+0,29%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

889,68

+2,56

+0,29%

Đồng (Comex)

US cent/lb

374,30

+1,00

+0,27%

Đồng (LME)

USD/tấn

8.268,00

-86,50

-1,04%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.178,00

-36,00

-1,63%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.466,00

-81,00

-3,18%

Thiếc (LME)

USD/tấn

25.233,00

+58,00

+0,23%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

442,50

+0,25

+0,06%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

581,50

-1,00

-0,17%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

353,50

+1,00

+0,28%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

17,64

0,00

-0,03%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.207,75

+2,00

+0,17%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

357,70

-1,00

-0,28%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

47,72

+0,02

+0,04%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

623,80

-2,90

-0,46%

Cacao (ICE)

USD/tấn

4.448,00

+19,00

+0,43%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

179,20

-6,05

-3,27%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

22,35

-0,17

-0,75%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

290,65

-8,40

-2,81%

Bông (ICE)

US cent/lb

81,82

+0,12

+0,15%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

153,00

+0,10

+0,07%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)