Năng lượng: Giá dầu giảm 1 USD/thùng sau khi chính phủ Mỹ điều chỉnh giảm một loạt số liệu thống kê về thị trường lao động.
Kết thúc phiên, dầu Brent giảm 1,15 USD, tương đương 1,49%, xuống 76,05 USD/thùng; dầu WTI giảm 1,24 USD, tương đương 1,69%, xuống 71,93 USD/thùng.
Bộ Lao động Mỹ hôm thứ Tư cho biết, các nhà tuyển dụng đã tuyển ít việc làm hơn so với báo cáo ban đầu trong năm tính đến tháng 3/2024. Ước tính tổng số việc làm giai đoạn từ tháng 4/2023 đến tháng 3/2024 giảm 818.000 so với các báo cáo trước đây.
"Thị trường đang chuyển hướng nhận định về nền kinh tế Mỹ từ vững mạnh sang nguy cơ hạ cánh cứng. Đó là lý do tại sao giá dầu không tăng cao hơn nữa", Phil Flynn, nhà phân tích của Price Futures Group cho biết.
Tuy nhiên, tồn trữ dầu thô của Mỹ gần đây giảm và biên bản cuộc họp của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cho thấy khả năng Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 9.
Cơ quan Thông tin Năng lượng (EIA) cho biết tồn trữ dầu thô, xăng và sản phẩm chưng cất của Mỹ đều giảm. Theo đó, tồn trữ dầu thô giảm 4,6 triệu thùng xuống 426 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 16/8, vượt dự báo của các nhà phân tích trong cuộc thăm dò của Reuters, là giảm 2,7 triệu thùng.
Theo biên bản cuộc họp chính sách tháng 7 của Fed, các quan chức của tổ chức này hầu hết ủng hộ quan điểm sẽ hạ lãi suất trong kỳ họp chính sách vào tháng 9, thậm chí một số người sẵn sàng giảm lãi suất ngay lập tức.
Trong khi đó, các nhà đầu tư vẫn lo ngại về viễn cảnh kinh tế Trung Quốc suy yếu sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu dầu thô của nước này. Những khó khăn về kinh tế của Trung Quốc đã góp phần làm giảm biên lợi nhuận chế biến và nhu cầu nhiên liệu thấp, hạn chế hoạt động tại các nhà máy lọc dầu.
"Chúng tôi đang xem xét mọi thứ có tính tới tình trạng kinh tế Trung Quốc và nếu có bất kỳ điều gì tiêu cực thì điều đó sẽ gây áp lực lên năng lượng", nhà phân tích Snyder của Matador Economics cho biết.
Trong khi đó, Biển Đỏ dẫn đến Kênh đào Suez là tuyến đường vận chuyển dầu quan trọng và các cuộc tấn công liên tục gây ra mối đe dọa tiềm tàng đối với dòng chảy dầu thô toàn cầu. Tổng thống Mỹ Joe Biden hôm thứ Tư đã lên kế hoạch điện đàm với Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu về giải pháp cách để duy trì lệnh ngừng bắn tiềm năng ở dải Gaza và thỏa thuận về con tin.
Kim loại quý: Giá vàng giảm song vẫn dao động gần mức cao kỷ lục sau khi biên bản cuộc họp gần đây nhất của Fed cho thấy các quan chức Fed có xu hướng cắt giảm lãi suất tại cuộc họp chính sách vào tháng 9/2024.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,1% lên 2.516,01 USD/ounce, sau khi đạt mức cao kỷ lục 2.531,6 USD/ounce trong phiên trước đó; vàng giao sau giảm 0,1% xuống 2.547,5 USD/ounce.
"Vàng đóng cửa ở mức cao sau khi biên bản cuộc họp của Fed cho thấy 'phần lớn' các thành viên của Ủy ban đã sẵn sàng cắt giảm lãi suất vào tháng 9", Tai Wong, một nhà giao dịch kim loại độc lập tại New York cho biết. Ông thêm rằng: "Tôi lạc quan một cách thận trọng vì tất cả các tin tức có lợi cho thị trường đã xuất hiện. Vàng có khả năng tăng cao hơn nhưng không có khả năng tăng tốc mạnh mẽ nếu không có động lực từ những sự kiện bất ngờ".
Tại cuộc họp tháng 7, "phần lớn" các nhà hoạch định chính sách "nhận thấy rằng, nếu dữ liệu tiếp tục diễn ra như dự kiến, thì có khả năng việc nới lỏng chính sách tại cuộc họp tiếp theo là phù hợp".
Sau khi biên bản cuộc họp của Fed được công bố, đồng USD giảm xuống mức thấp nhất hơn 7 tháng, lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm cũng giảm xuống mức thấp nhất hơn 2 tuần.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,6% lên 29,61 đô USD/ounce, bạch kim tăng 2,6% lên 970,75 USD và palladium tăng 2,7% lên 951,00 USD, mức cao nhất trong hơn một tháng.
Các kim loại làm chất xúc tác trong ngành ô tô cũng tăng sau khi Ford Motor cho biết họ sẽ ngừng sản xuất xe SUV điện ba hàng ghế theo kế hoạch và hoãn sản xuất phiên bản điện mới của xe bán tải bán chạy nhất, F-150. Cả bạch kim và palladium đều được các nhà sản xuất ô tô sử dụng trong bộ chuyển đổi xúc tác để làm sạch khí thải ô tô.
Kim loại công nghiệp: Giá nhôm giảm do các nhà đầu tư bán ra chốt lời sau đợt tăng giá kéo dài tám phiên. Kết thúc phiên, giá nhôm giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 1% xuống 2.478 USD/tấn, sau khi giảm mạnh 2% xuống 2.452,5 USD/tấn lúc đầu phiên giao dịch.
Đồng USD chịu áp lực giảm sau thông tin các nhà tuyển dụng Mỹ tạo ra ít việc làm hơn so với báo cáo ban đầu trong năm tính đến tháng 3/2024, làm dầy lên mối lo ngại về ‘sức khỏe’ của thị trường lao động, khi đợt cắt giảm lãi suất đầu tiên dự kiến diễn ra vào tháng 9/2024.
Ole Hansen, giám đốc chiến lược hàng hóa tại Ngân hàng Saxo cho biết mọi người đang đổ dồn sự chú ý vào các bình luận của chủ tịch Fed Jerome Powell vào thứ Sáu towos để tìm manh mối về việc nới lỏng lãi suất - điều có thể làm giảm chi phí nắm giữ kim loại.
Về các yếu tố cơ bản, nguồn cung nguyên liệu thô của nhôm vẫn eo hẹp vì mùa mưa đã làm gián đoạn các chuyến bô-xít từ Guinea. Việc cắt giảm sản lượng ngoài Trung Quốc cũng làm giảm nguồn cung toàn cầu.
Về những kim loại cơ bản khác, giá đồng tăng 0,4% lên 9.236 USD/tấn. Đà tăng giá đồng bị hạn chế bởi mức tồn kho cao nhất trong 5 năm tại các kho do LME giám sát. Thị trường coi việc tồn kho đồng tăng là dấu hiệu của mức tiêu thụ yếu.
Giá chì trên sàn London tăng 1,5% lên 2.085 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 3 tuần (2.089,5 USD/tấn), do tồn trữ tại châu Á giảm 21% xuống 185.500 tấn kể từ đầu tháng 8/2024. Giá kẽm tăng 1,4% lên 2.843,5 USD, trong khi thiếc tăng 1,3% lên 32.598 USD/tấn và niken giảm 1,1% xuống 16.850 USD/tấn.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng lên mức cao nhất 1 tuần, khi các biện pháp hỗ trợ thị trường bất động sản tại Trung Quốc làm dấy lên kỳ vọng nhu cầu trong những tháng tới sẽ được cải thiện.
Kết thúc phiên, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Đại Liên tăng 4,58% lên 742 CNY (104,01 USD)/tấn, cao nhất kể từ ngày 13/8/2024; quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Singapore tăng 3,66% lên 99 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 14/8/2024.
Giá thép trên sàn sao dịch Thượng Hải tiếp tục xu hướng tăng. Theo đó, giá thép cây tăng 2,5%, thép cuộn cán nóng tăng 3,79%, thép cuộn tăng 1,76% và thép không gỉ tăng 0,88%.
"Ít nhất 10 chính quyền thành phố ở Trung Quốc đã nới lỏng hoặc hủy bỏ các hướng dẫn về giá nhà mới để gia tăng vai trò của nhu cầu trên thị trường tự do", các nhà phân tích của ANZ cho biết.
Các nhà phân tích tại Jinrui Futures cho biết trong một lưu ý: "Làn sóng tăng giá thép cây gần đây chủ yếu là do kỳ vọng về nhu cầu được cải thiện vào tháng 9 và tháng 10, cùng với sản lượng và lượng hàng tồn kho thấp".
Nông sản: Giá lúa mì Mỹ giảm do nguồn cung trên toàn cầu dồi dào và xuất khẩu mạnh từ khu vực Biển Đen với giá rẻ. Giá đậu tương tăng khi Bộ Nông nghiệp Mỹ thông báo các nhà xuất khẩu nước này 3 ngày liên tiếp ký được hợp đồng bán đậu tương cho Trung Quốc.
Kết thúc phiên, trên sàn Chicago, giá đậu tương tăng 5-1/2 US cent lên 9,81-1/2 USD/bushel; ngô tăng 1/4 US cent lên 3,98-1/4 USD/bushel, trong khi lúa mì giảm 13-1/2 US cent xuống 5,19-3/4 USD/bushel.
Giá đường tăng nhưng không xa mức thấp nhất trong nhiều năm của phiên liền trước do tốc độ sản xuất mạnh mẽ ở Trung-Nam Brazil đảm bảo thị trường vẫn được cung cấp đầy đủ. Hợp đồng đường thô kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn ICE tăng 0,08 US cent, tương đương 0,5%, lên 17,65 US cent/lb, sau khi giảm xuống 17,52 US cent/lb - thấp nhất kể từ tháng 10/2022, trong phiên trước đó; đường trắng kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn London tăng 0,6% lên 505,6 USD/tấn.
Các đại lý cho biết sản lượng đường ở Trung Nam Brazil vẫn mạnh, nhưng có dấu hiệu cho thấy sản lượng bắt đầu giảm nhanh hơn năm ngoái. "Mặc dù vụ mùa Trung Nam Brazil đang tăng trưởng vượt trội so với năm ngoái, nhưng báo cáo hai tuần mới nhất từ UNICA cho thấy sản lượng trong nửa cuối tháng 7 thấp hơn so với cùng kỳ năm ngoái. Nếu xu hướng này tiếp tục, các nhà đầu cơ có thể phải xem xét lại thái độ bi quan của họ về thị trường", ngân hàng ING cho biết.
Giá cà phê robusta tăng lên mức cao nhất trong một tháng do xuất khẩu từ Việt Nam tiếp tục chậm lại so với tốc độ của mùa trước trong bối cảnh lo ngại về lượng mưa trong tháng này ở Việt Nam thấp hơn bình thường.
Theo đó, cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn London tăng 13 USD, tương đương 0,3%, lên 4.632 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 1 tháng (4.658 USD/tấn) lúc đầu phiên giao dịch.
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn ICE tăng 0,3% lên 2,4925 USD/lb.
Giá cao su kỳ hạn tương lai tại Nhật Bản tăng lên mức cao nhất 8 tuần do giá cao su tổng hợp và cao su hàng thực tăng.
Kết thúc phiên, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Osaka (OSE) tăng 8,1 JPY, tương đương 2,45%, lên 339,1 JPY/kg; trong phiên có lúc đạt 339,4 JPY/kg – cao nhất kể từ ngày 14/6/2024.
Cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Thượng Hải tăng 135 CNY, tương đương 0,84%, lên 16.290 CNY (2.284,46 USD)/tấn. Cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Singapore tăng 0,7% lên 176,3 US cent/kg.
Hợp đồng cao su butadiene kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 145 CNY, tương đương 1%, lên 14.610 CNY (2.048,6 USD)/tấn.
Cao su tấm hun khói xuất khẩu của Thái Lan (RSS3) và cao su khối (STR20C) tăng lần lượt 1,75% và 4,69% lên 86,09 baht (2,52 đô la) và 68,97 baht (2,01 đô la).
Cơ quan khí tượng của Thái Lan, nhà sản xuất cao su hàng đầu, đã cảnh báo về những trận mưa lớn có thể gây ra lũ quét từ ngày 21 đến 27 tháng 8.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
71,79
|
-0,14
|
-0,19%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
75,99
|
-0,06
|
-0,08%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
219,85
|
-0,65
|
-0,29%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,19
|
+0,01
|
+0,60%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
224,16
|
-0,81
|
-0,36%
|
Vàng (Comex)
|
USD/ounce
|
2.537,10
|
-10,40
|
-0,41%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
2.501,27
|
-11,29
|
-0,45%
|
Bạc (Comex)
|
USD/ounce
|
29,85
|
-0,12
|
-0,40%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
964,66
|
-4,49
|
-0,46%
|
Đồng (Comex)
|
US cent/lb
|
422,70
|
+0,05
|
+0,01%
|
Đồng (LME)
|
USD/tấn
|
9.260,00
|
+56,00
|
+0,61%
|
Nhôm (LME)
|
USD/tấn
|
2.487,00
|
-15,00
|
-0,60%
|
Kẽm (LME)
|
USD/tấn
|
2.850,50
|
+45,50
|
+1,62%
|
Thiếc (LME)
|
USD/tấn
|
32.695,00
|
+419,00
|
+1,30%
|
Ngô (CBOT)
|
US cent/bushel
|
398,50
|
+0,25
|
+0,06%
|
Lúa mì (CBOT)
|
US cent/bushel
|
544,75
|
+0,75
|
+0,14%
|
Lúa mạch (CBOT)
|
US cent/bushel
|
320,25
|
-0,75
|
-0,23%
|
Gạo thô (CBOT)
|
USD/cwt
|
14,77
|
-0,02
|
-0,14%
|
Đậu tương (CBOT)
|
US cent/bushel
|
977,25
|
-4,25
|
-0,43%
|
Khô đậu tương (CBOT)
|
USD/tấn
|
308,20
|
-0,50
|
-0,16%
|
Dầu đậu tương (CBOT)
|
US cent/lb
|
39,23
|
-0,35
|
-0,88%
|
Hạt cải (ICE)
|
CAD/tấn
|
573,10
|
-4,50
|
-0,78%
|
Cacao (ICE)
|
USD/tấn
|
7.697,00
|
+57,00
|
+0,75%
|
Cà phê (ICE)
|
US cent/lb
|
249,25
|
+0,75
|
+0,30%
|
Đường thô (ICE)
|
US cent/lb
|
17,65
|
+0,08
|
+0,46%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)
|
US cent/lb
|
460,95
|
+17,85
|
+4,03%
|
Bông (ICE)
|
US cent/lb
|
70,20
|
-0,15
|
-0,21%
|
Lông cừu (ASX)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ (CME)
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su Singapore
|
US cent/kg
|
177,40
|
-1,30
|
-0,73%
|
Ethanol (CME)
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|