Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã kết thúc cuộc họp chính sách 2 ngày với quyết định giảm lãi suất qua đêm xuống 4,5-4,75%, từ đó gây áp lực giảm đối với đồng USD và lợi suất trái phiếu, làm tăng sức hấp dẫn của vàng thỏi không sinh lời. Chỉ số đồng USD giảm 0,6% so với giỏ các đồng tiền chủ chốt, sau khi tăng lên mức cao nhất 4 tháng.
Năng lượng: Giá dầu tăng gần 1%, khi thị trường cân nhắc tác động từ các chính sách của Tổng thống mới đắc cử Donald Trump đến nguồn cung và các công ty khoan dầu Mỹ cắt giảm sản lượng để ứng phó với cơn bão Rafael.
Đồng USD mạnh và lượng dầu thô nhập khẩu vào Trung Quốc giảm đã hạn chế đã tăng.
Kết thúc phiên, dầu Brent tăng 71 US cent, tương đương 0,95%, lên 75,63 USD/thùng; dầu WTI tăng 67 US cent, tương đương 0,93%, lên 72,36 USD/thùng.
Vào thứ Tư, cuộc bầu cử của cựu Tổng thống Cộng hòa Trump ban đầu đã gây ra đợt bán tháo khiến giá dầu giảm hơn 2 USD khi đồng USD tăng giá. Sau đó, giá đã hồi phục và kết thúc phiên chỉ còn giảm gần 1%.
Phiên vừa qua, giá dầu tăng bởi dự đoán chính quyền của ông Trump sắp tới có thể thắt chặt lệnh trừng phạt đối với Iran và Venezuela và điều này có thể làm giảm nguồn cung dầu trên thị trường, Andrew Lipow, chủ tịch thuộc Hiệp hội dầu Lipow cho biết.
Trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, ông Trump đã áp dụng các lệnh trừng phạt khắc nghiệt hơn đối với dầu mỏ của Iran và Venezuela. Các biện pháp đó đã bị chính quyền Biden hủy bỏ trong thời gian ngắn nhưng sau đó đã được khôi phục lại.
Một yếu tố khác cũng hỗ trợ giá, đó là Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã cắt giảm lãi suất một phần tư điểm phần trăm khi kết thúc cuộc họp chính sách vào thứ Năm. Việc cắt giảm lãi suất thường thúc đẩy hoạt động kinh tế và nhu cầu năng lượng.
Trên thực tế, việc cắt giảm nguồn cung cũng hỗ trợ. Tại Bờ biển Vịnh Mỹ, hơn 22% công suất sản xuất, hay 391.214 thùng mỗi ngày, sản lượng dầu thô đã bị đóng cửa để ứng phó với Bão Rafael, Cục An toàn và Thực thi Môi trường Mỹ cho biết.
Tuy nhiên, giá dầu tăng bị hạn chế do đồng USD tăng mạnh và nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc giảm. Chỉ số đồng USD giảm gần 1%, song vẫn ở mức cao nhất gần 2 tuần, sau chiến thắng của Trump. Đồng USD tăng mạnh khiến giá dầu trở nên đắt hơn đối với khách hàng nắm giữ tiền tệ khác và có xu hướng gây áp lực giá.
Áp lực cũng đến từ việc nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc trong tháng 10/2024 giảm 9% - tháng giảm thứ 6 liên tiếp, cũng như lượng tồn trữ dầu thô của Mỹ tăng.
Kim loại quý: Giá vàng tăng hơn 1%, được hỗ trợ bởi đồng USD giảm, trong khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cắt giảm lãi suất thêm 0,25 điểm phần trăm đúng như dự kiến.
Cuối phiên, vàng giao ngay tăng 1,2% lên 2.691,36 USD/ounce, sau khi chạm mức thấp nhất 3 tuần (2.652,19 USD/ounce) trong phiên trước đó; vàng giao sau tăng 1,1% lên 2.705,8 USD/ounce.
Giá bạc giao ngay cũng tăng 1,8% lên 31,71 USD một ounce, bạch kim tăng 0,6% lên 992,65 USD và palladium giảm 1,3% xuống 1.021,25 USD.
Fed đã hạ lãi suất xuống 4,5-4,75%, gây áp lực giảm giá đồng USD và lợi suất trái phiếu, làm tăng sức hấp dẫn của vàng thỏi không sinh lời. Theo dữ liệu của LSEG, các nhà giao dịch hiện dự đoán Fed sẽ giảm lãi suất thêm 25 điểm cơ bản nữa trong kỳ họp tháng 12.
Với sự trở lại sắp tới của ông Trump, "bất kỳ đợt cắt giảm lãi suất nào trong tương lai cũng có thể khó đạt được hơn do lo ngại rằng giá cả tăng cao và lạm phát dai dẳng buộc các ngân hàng trung ương phải duy trì chính sách hạn chế lâu hơn mong muốn", nhà phân tích độc lập Michael Hewson đã viết trong một lưu ý.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng tăng khi các nhà đầu tư đánh giá tác động từ chiến thắng của ông Donald Trump và kỳ vọng Trung Quốc sẽ đưa thêm biện pháp kích thích kinh tế. Đồng USD yếu đi cũng khiến kim loại tính theo USD trở nên rẻ hơn đối với người mua sử dụng các loại tiền tệ khác.
Kết thúc phiên, đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 3,5% lên 9.670 USD/tấn, sau khi giảm mạnh 4,5% xuống mức thấp nhất kể từ ngày 18/9/2024 trong phiên trước đó. Đồng kỳ hạn tương lai trên sàn Comex của Mỹ tăng vọt 4,2% lên 4,43 USD/lb.
Giá đồng cũng được hỗ trợ bởi chỉ số đồng USD suy giảm và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cắt giảm lãi suất thêm 0,25 điểm phần trăm. Đồng USD suy yếu, khiến kim loại định giá bằng đồng USD trở nên rẻ hơn đối với khách hàng sử dụng tiền tệ khác.
“Cơn sốt thanh lý dài hạn trong phiên trước hiện đang được thay thế bằng một cuộc kiểm tra thực tế hơn. Thị trường hiện đang có cách tiếp cận lạc quan hơn chứ không hoảng loạn như ban đầu (sau chiến thắng bầu cử của Donald Trump tại Mỹ)", Ole Hansen, giám đốc chiến lược hàng hóa tại Ngân hàng Saxo ở Copenhagen cho biết.
Trong số những điều mà các nhà đầu tư lo ngại là mối đe dọa của Trump về việc áp thuế đối với quốc gia tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới, là Trung Quốc, nhưng Hansen lưu ý rằng trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình ông Trump đã mất khoảng 11 tháng để hành động về thuế quan với tư cách là Tổng thống. "Thị trường kim loại công nghiệp hiện đang hướng tới những gì có thể đến từ Trung Quốc về các thông báo kích thích bổ sung", Hansen nói thêm.
Thị trường cũng được thúc đẩy bởi dữ liệu vào thứ Năm cho thấy xuất khẩu của Trung Quốc trong tháng 10 tăng với tốc độ nhanh nhất trong hơn hai năm, trong khi nhập khẩu đồng chưa gia công của nước này cũng tăng.
Tuy nhiên, các nhà đầu tư vẫn lo ngại rằng Trump có thể hủy bỏ các sáng kiến điện khí hóa, làm giảm nhu cầu đối với các kim loại như đồng.
"Các chính sách chống Trung Quốc, chống xanh và ủng hộ đồng USD của Trump sẽ khiến kim loại trượt giá", Sandeep Daga, giám đốc Trung tâm tình báo kim loại cho biết.
Đối với các kim loại cơ bản khác, giá nhôm phiên này tăng 3,3% lên 2.701 USD/tấn và đạt mức cao nhất trong hơn năm tháng sau khi Alcoa giảm một nả xuất khẩu nguyên liệu nhôm từ Brazil. Giá nickel tăng 3% lên 16.605 USD, kẽm tăng 2,8% lên 3.055,50 USD, thiếc tăng 1,8% lên 31.900 USD trong khi chì giảm 0,4% xuống 2.040 USD.
Giá quặng sắt trên trên thị trường Trung Quốc tăng sau khi Donald Trump giành chiến thắng trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ, dấy lên kỳ vọng rằng nước tiêu thụ hàng đầu thế giới– Trung Quốc – sẽ công bố các biện pháp kích thích mạnh mẽ để bù đắp bất kỳ tác động nào từ cuộc chiến thương mại có thể lan rộng hơn.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Đại Liên tăng 2,11% lên 799,5 CNY (111,56 USD)/tấn – cao nhất kể từ ngày 16/10/2024. Quặng sắt kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn Singapore tăng 1,84% lên 105,85 USD/tấn.
Giá các sản phẩm thép cũng tăng. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 1,03%, thép cuộn cán nóng tăng 0,7%, thép cuộn tăng 0,27% và thép không gỉ tăng 0,22%.
Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc Trung Quốc sẽ họp từ ngày 4 đến ngày 8 tháng 11, với các nhà giao dịch tập trung cao độ vào các chỉ đạo từ các biện pháp kích thích tài khóa, được mong đợi từ lâu. Trung Quốc sẽ tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ hỗ trợ để giúp thúc đẩy phục hồi kinh tế bền vững, Pan Gongsheng, thống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, cho biết trong bài phát biểu được công bố vào thứ năm.
"Nếu chính sách kích thích tài khóa mạnh mẽ được thực hiện, cùng với việc hiện thực hóa cơ sở hạ tầng và mua bổ sung trước cuối năm, thì chính sách kích thích ngắn hạn và các yếu tố cơ bản – dự kiến sẽ cải thiện chút ít – sẽ hỗ trợ giá", các nhà phân tích tại Jinrui Futures cho biết.
Dữ liệu chính thức cho thấy lượng quặng sắt nhập khẩu của Trung Quốc trong tháng 10 đã tăng 4,48% so với cùng kỳ năm ngoái, do biên lợi nhuận của các nhà sản xuất thép được cải thiện, nhờ gói kích thích kinh tế lớn của Bắc Kinh thúc đẩy nhiều hoạt động mua vào hơn.
Nông sản: Giá đậu tương Mỹ tăng lên mức cao nhất 1 tháng, do thị trường dầu thực vật tăng mạnh. Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 12/2024 tăng 22-1/2 US cent lên 10,26-1/4 USD/bushel, mức cao nhất kể từ ngày 8/10/2024.
Giá dầu đậu tương trên sàn Chicago và dầu cọ Malaysia tăng vọt đã hỗ trợ đậu tương và làm lu mờ nỗi lo về nguy cơ căng thẳng thương mại Mỹ - Trung gia tăng sau khi Donald Trump tái đắc cử tổng thống Mỹ. Dầu đậu tương tăng vọt lên mức cao nhất trong bốn tháng do nhu cầu vững chắc, trong khi dầu cọ tăng sau khi tăng vào thứ Tư lên mức cao nhất trong hơn hai năm.
Giá dầu đậu tương kỳ hạn tháng 12/2024 tăng 1,98 US cent lên 48,32 US cent/lb.
Giá ngô cũng tăng vượt mức cao nhất một tháng. Ngô kỳ hạn tháng 12/2024 tăng 1-1/4 US cent lên 4,27-1/2 USD/bushel và đạt mức cao nhất kể từ ngày 3/10/2024.
Riêng giá lúa mì kỳ hạn tháng 12/2024 giảm 1-3/4 US cent xuống 5,71-1/2 USD/bushel.
Giá đường tăng nhẹ lúc đóng cửa sau khi giảm vào đầu ngày thứ Tư cùng với các mặt hàng khác chịu áp lực từ đồng USD mạnh hơn.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2025 trên sàn ICE tăng 0,17 US cent tương đương 0,8% lên 22,2 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn London tăng 1,3% lên 562,9 USD/tấn.
Mưa vẫn tiếp tục rơi trên các vùng trồng mía của Brazil, nhưng quá trình phát triển cây trồng lần này có thể sẽ mất nhiều thời gian hơn vì các cánh đồng đang trong tình trạng tồi tệ.
Các đại lý cũng cho biết mưa dự kiến sẽ làm chậm quá trình thu hoạch và sản xuất trong thời gian tới và có thể khiến mùa vụ hiện tại kết thúc sớm.
Chính phủ Brazil cho biết đã xuất khẩu 3,73 triệu tấn đường trong tháng 10, tăng 30% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2024 tăng 11,65 US cent tương đương 4,7% lên 2,604 USD/lb; cà phê robusta tăng 4,2% lên 4.486 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất 2,5 tháng trong phiên trước đó.
Trên thị trường châu Á, giá cà phê Việt Nam giảm trước vụ thu hoạch bước vào giai đoạn cao điểm trong khi nguồn cung tại Indonesia suy giảm.
Tại Tây Nguyên, cà phê nhân xô được bán với giá 105.500-106.000 VND (4,16-4,18 USD)/kg, giảm so với 108.200 – 108.600 VND/kg 1 tuần trước đó. Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 180 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn London.
Việt Nam đã xuất khẩu 1,15 triệu tấn cà phê trong 10 tháng đầu năm 2024, giảm 11,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong tháng 10/2024, Việt Nam xuất khẩu 44.000 tấn cà phê tăng 1,5% so với cùng tháng năm ngoái.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng phiên thứ 3 liên tiếp nhờ triển vọng kinh tế lạc quan về kinh tế Trung Quốc – nước tiêu thụ cao su hàng đầu thế giới.
Cao su kỳ hạn tháng 4/2025 trên sàn Osaka (OSE) tăng 2,9 JPY tương đương 0,79% lên 367,9 JPY (2,39 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Thượng Hải tăng 255 CNY tương đương 1,41% lên 18.285 CNY (2.551,92 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng
Dữ liệu thương mại của Trung Quốc công bố hôm thứ Năm cho thấy xuất khẩu trong tháng 10 tăng với tốc độ nhanh nhất trong hơn hai năm khi các nhà sản xuất vội vã chuyển hàng tồn kho đến các thị trường xuất khẩu lớn để chuẩn bị cho các mức thuế quan tiếp theo từ Mỹ và Liên minh châu Âu.
Cơ quan khí tượng của Thái Lan, nhà sản xuất cao su hàng đầu thế giới, đã cảnh báo về gió mạnh và lượng mưa lớn có thể gây ra lũ quét từ ngày 7 đến ngày 13 tháng 11.
Cập nhật giá hàng hóa:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
71,93
|
-0,43
|
-0,59%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
75,29
|
-0,34
|
-0,45%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
204,49
|
-0,87
|
-0,42%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,70
|
+0,01
|
+0,30%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
227,35
|
-1,29
|
-0,56%
|
Vàng (Comex)
|
USD/ounce
|
2.704,20
|
-1,60
|
-0,06%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
2.697,27
|
-9,44
|
-0,35%
|
Bạc (Comex)
|
USD/ounce
|
31,84
|
-0,02
|
-0,06%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
995,91
|
-1,43
|
-0,14%
|
Đồng (Comex)
|
US cent/lb
|
440,60
|
-2,55
|
-0,58%
|
Đồng (LME)
|
USD/tấn
|
9.664,00
|
+321,00
|
+3,44%
|
Nhôm (LME)
|
USD/tấn
|
2.694,50
|
+79,00
|
+3,02%
|
Kẽm (LME)
|
USD/tấn
|
3.052,00
|
+79,00
|
+2,66%
|
Thiếc (LME)
|
USD/tấn
|
31.817,00
|
+470,00
|
+1,50%
|
Ngô (CBOT)
|
US cent/bushel
|
427,75
|
+0,25
|
+0,06%
|
Lúa mì (CBOT)
|
US cent/bushel
|
573,25
|
+1,75
|
+0,31%
|
Lúa mạch (CBOT)
|
US cent/bushel
|
385,00
|
+1,75
|
+0,46%
|
Gạo thô (CBOT)
|
USD/cwt
|
14,41
|
+0,02
|
+0,10%
|
Đậu tương (CBOT)
|
US cent/bushel
|
1.021,25
|
-5,00
|
-0,49%
|
Khô đậu tương (CBOT)
|
USD/tấn
|
298,00
|
-0,50
|
-0,17%
|
Dầu đậu tương (CBOT)
|
US cent/lb
|
47,90
|
-0,42
|
-0,87%
|
Hạt cải (ICE)
|
CAD/tấn
|
656,80
|
-3,00
|
-0,45%
|
Cacao (ICE)
|
USD/tấn
|
7.178,00
|
+508,00
|
+7,62%
|
Cà phê (ICE)
|
US cent/lb
|
259,75
|
+11,70
|
+4,72%
|
Đường thô (ICE)
|
US cent/lb
|
22,20
|
+0,17
|
+0,77%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)
|
US cent/lb
|
460,25
|
+2,45
|
+0,54%
|
Bông (ICE)
|
US cent/lb
|
71,19
|
+0,14
|
+0,20%
|
Lông cừu (ASX)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ (CME)
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su Singapore
|
US cent/kg
|
203,80
|
+3,10
|
+1,54%
|
Ethanol (CME)
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|