Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng hơn 3% do lo ngại xung đột mở rộng ở Trung Đông sau khi Israel từ chối lời đề nghị ngừng bắn từ Hamas. Phái đoàn Hamas đã đến Cairo hôm thứ Năm để đàm phán ngừng bắn với các nhà hòa giải Ai Cập và Qatar.
Kết thúc phiên thứ Năm (8/2), dầu thô Brent tăng 2,42 USD/thùng, hay 3%m lên 81,36 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 2,36 USD, hay 3,2%, lên 76,22 USD/thùng. Phiên này, giá dầu Brent vượt 80 USD/thùng và WTI tăng trên 75 USD/thùng lần đầu tiên kể từ đầu tháng 2.
Tại Mỹ, tồn kho xăng và sản phẩm chưng cất giảm mạnh hơn dự kiến cũng góp phần làm tưang giá dầu mỏ. Dự trữ nhiên liệu giảm kết hợp với dự trữ dầu thô tăng, là kết quả của việc các nhà máy lọc dầu Mỹ đang bảo dưỡng. Điều này, cùng với việc châu Âu đang thiếu dầu diesel, có thể giúp duy trì tâm lý tích cực hiện nay trên thị trường dầu.
Ở những nơi khác, mỏ dầu Johan Sverdrup của Na Uy - mỏ lớn nhất ở Biển Bắc - sẽ duy trì sản lượng ổn định ở mức cao hơn 755.000 thùng/ngày trong thời gian còn lại của năm nay, Aker BP cho biết. Công suất dự kiến ban đầu của nó là 660.000 thùng/ngày.
Giovanni Staunovo, nhà phân tích của UBS cho biết, tăng trưởng nhu cầu vẫn tốt ở các quốc gia tiêu thụ dầu lớn, bao gồm Ấn Độ và Mỹ.
Bộ Lao động Mỹ hôm thứ Năm cho biết số đơn xin trợ cấp thất nghiệp của nước này đã giảm nhẹ hơn dự kiến vào tuần trước, cho thấy thị trường việc làm vẫn duy trì tốt.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm bởi USD mạnh lên và lợi suất trái phiếu kho bạc tăng do giảm hy vọng vào việc Fed sẽ sớm cắt giảm lãi suất, trong khi palladim tiếp tục giảm do triển vọng nhu cầu dài hạn đi xuống.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay giảm 0,13% xuống 2.031,58 USD/ounce. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 4 đóng cửa giảm 0,2% xuống 2.047,9 USD/ounce. Giá bạc phiên này tăng 1,6% lên 22,55 USD/ounce và bạch kim tăng 0,6% ở mức 884,91 USD.
Chỉ số USD tăng 0,1% khiến vàng đắt hơn cho người giữ các tiền tệ khác.
Bart Melek, người phụ trách mảng chiến lược hàng hóa của TD Securities, cho biết: “Thực tế là nền kinh tế Mỹ tiếp tục khá vững chắc và điều đó có nghĩa là Fed có rất ít quyền lực ở giai đoạn này để bắt đầu cắt giảm lãi suất”. Ông Melek nói thêm: “Để vàng tăng giá, chúng ta phải bắt đầu thấy bằng chứng cho thấy nền kinh tế thực sự đang chậm lại về mặt và lạm phát đang có xu hướng thấp hơn trên cơ sở bền vững”.
Một số phát ngôn viên của Fed hôm thứ Tư đã đưa ra một loạt lý do khiến họ cảm thấy không mấy khẩn cấp trong việc Mỹ sẽ sớm bắt đầu nới lỏng chính sách hoặc hành động nhanh chóng sau khi thực hiện.
Theo công cụ CME Fedwatch, các nhà giao dịch hiện thấy khoảng 61% khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 5. Lãi suất thấp hơn làm giảm chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng thỏi không sinh lãi.
Giá palladium giao ngay trong phiên này giảm 1,3% xuống 882,85 USD/ounce, sau khi chạm 856,38 USD, mức thấp nhất trong 5 năm, trước đó trong phiên.
Giá palladium vào thứ Năm đã giảm xuống thấp hơn giá bạch kim loại lần đầu tiên kể từ tháng 4 năm 2018, do lo ngại về nhu cầu ngày càng tăng và đặt cược vào nguồn cung ổn định gây áp lực lên kim loại. Cả bạch kim và palladium đều được các nhà sản xuất ô tô sử dụng trong bộ chuyển đổi xúc tác để làm sạch khói thải ô tô.
Nhà phân tích Giovanni Staunovo của UBS cho biết: “Việc chuyển đổi mới kim loại được sử dụng trong chất xúc tác ô tô của các nhà sản xuất ô tô khó có thể xảy ra trong tương lai gần vì ô tô được sản xuất trong chu kỳ dài hơn. Do đó, có thể giá palladium được giao dịch ở mức giá thấp hơn bạch kim trong thời gian dài”.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá kẽm giảm xuống mức thấp nhất hơn 5 tháng, bị ảnh hưởng bởi tồn kho tăng và lo lắng về ảnh hưởng của lĩnh vực bất động sản, trong khi đồng chạm mức thấp nhất trong gần 3 tháng. Đồng USD mạnh lên cũng gây áp lực giảm giá kim loại.
Kết thúc phiên, kẽm giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch Kim loại London (LME) giảm 2,8% xuống 2.333 USD/tấn, giá đã xuống 2.322 USD thấp nhất kể từ ngày 22/8. Giá kẽm đã giảm 7,2% trong tháng qua và giảm 4,3% chỉ riêng trong trong tuần này. Sự suy yếu trong thị trường kẽm cũng bởi sự gia tăng trong tồn kho kẽm của sàn LME, tăng 14% trong hơn 10 ngày qua lên mức cao nhất một tháng.
Dan Smith, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu của Amalgamated Metal Trading, cho biết: “Tâm lý của nhà đầu tư về vấn đề tài sản Trung Quốc ngày càng tiêu cực hơn, điều này chắc chắn đáng lo ngại”. “Các thị trường có liên quan tới lĩnh vực bất động sản Trung Quốc sẽ hoạt động tồi tệ, điều này giải thích tại sao kẽm là mặt hàng hoạt động kém nhất trên sàn LME trong một thời gian dài trong tuần và tháng qua.”
Việc sử dụng kẽm chính là để mạ thép, với một nửa nhu cầu toàn cầu đến từ lĩnh vực xây dựng.
Xu hướng giảm giá trên thị trường kẽm cũng thể hiện ở tồn kho kẽm LME, đã tăng 14% trong 10 ngày qua lên mức cao nhất trong một tháng.
Giá đồng trên sàn LME giảm 1,3% xuống 8.203 USD/tấn, thấp nhất kể từ ngày 17/10 do USD mạnh và nhà đầu tư lo lắng về kinh tế của Trung Quốc.
Ông Smith cho biết: “Đối với đồng, chúng thấy giá tăng về mặt cơ bản, điều này đang bị kìm hãm bởi tất cả những lo lắng về Trung Quốc”.
Thiếc là mặt hàng hoạt động tốt nhất trên sàn LME trong phiên vừa qua, với giá tăng 1,9% lên 25.980 USD/tấn sau khi xuất khẩu thiếc tinh luyện trong tháng 1 từ nhà sản xuất lớn Indonesia giảm 99% so với cùng kỳ năm ngoái sau khi các công ty khai thác bị chậm trễ trong việc phê duyệt kế hoạch làm việc.
Ông Smith cho biết nhu cầu thiếc trong hàn kim loại cũng được hỗ trợ bởi lĩnh vực điện tử đang phát triển.
Tuy nhiên, hoạt động giao dịch các kim loại công nghiệp diễn ra chậm do nước tiêu dùng hàng đầu Trung Quốc sắp bước vào kỳ nghỉ Tết Nguyên đán từ ngày 9 đến 16/2.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm trên sàn LME tăng 0,1% lên 2.225 USD/tấn, niken tăng 1% lên 16.165 USD trong khi chì giảm 2,1% xuống 2.056,50 USD.
Trong nhóm kim loại đen, giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng lên gần mức cao nhất một tuần do hy vọng nhu cầu tốt hơn từ lĩnh vực bất động sản khi Trung Quốc báo hiệu một số hỗ trợ cho lĩnh vực đang khó khăn này.
Quặng sắt giao tháng 5 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc đóng cửa tăng 2,4% lên 963,5 CNY (133,9 USD)/tấn. Trước đó trong phiên giá đã đạt 967,5 CNY, cao nhất kể từ ngày 2/2. Tại Singapore quặng sắt giao tháng 3 tăng 2,4% lên 128 USD/tấn.
Trung Quốc đặt mục tiêu tăng cường tài chính cho các dự án nhà ở trong những ngày tới như một phần trong các biện pháp hỗ trợ của họ. Xây dựng chiếm phần lớn nhu cầu về thép và quặng sắt.
Trên sàn Thượng Hải, thép thanh tăng 0,7% lên 3.854 CNY/tấn, thép cuộn cán nóng tăng 0,6% lên 3.984 CNY, dây thép cuộn giảm 0,2% xuống 4.052 CNY trong khi thép không gỉ tăng 0,4% lên 13.630 CNY.
Sàn giao dịch Đại Liên và Thượng Hải sẽ đóng cửa nghỉ Tết từ ngày 9 tới 16/2.
Trung Quốc đặt mục tiêu tăng cường tài trợ cho các dự án nhà ở trong những ngày tới như một phần trong các biện pháp hỗ trợ của mình. Xây dựng chiếm phần lớn nhu cầu về thép và quặng sắt.
Tuy nhiên, các ngân hàng không muốn cho lĩnh vực khủng hoảng này vay vốn sẽ vẫn là một trở ngại chính cho các nhà phát triển gặp khó khăn.
Các nhà phân tích của ANZ cho biết: “Tồn kho quặng sắt tại các nhà máy thép lớn của Trung Quốc giảm xuống mức thấp nhất trong hơn 2 năm cũng làm dấy lên sự lạc quan rằng giai đoạn bổ sung hàng có thể tăng giá sau khi kỳ nghỉ Tết Nguyên đán kéo dài một tuần kết thúc”.
Sàn giao dịch Đại Liên và Thượng Hải sẽ đóng cửa để nghỉ lễ ở Trung Quốc từ ngày 9 đến ngày 16 tháng 2.
Trên thị trường nông sản, gía đậu tương trên Mỹ tăng do sự ồ ạt mua vào cuối phiên, do thị trường này khó khăn để xác định quy mô vụ mùa của Brazil. Cả Bộ Nông nghiệp Mỹ và cơ quan Conab của Brazil đều giảm dự báo của họ về sản lượng đậu tương của Brazil sau khi thời tiết khô và nóng.
Ngô tăng giá trong một thời gian ngắn trước khi đảo chiều giảm. Trong khi đó, giá lúa mì tiếp tục chịu áp lực từ dấu hiệu giá giảm tại Nga làm gia tăng mối lo ngại về cạnh tranh gay gắt đối với xuất khẩu.
Kết thúc phiên này, giá đậu tương trên sàn Chicago (hợp đồng được giao dịch nhiều nhất) tăng 4-1/5 US cent lên 11,93-1/2 USD/bushel; ngô giảm 1 US cent xuống 4,33-1/4 USD/bushel và lúa mì giảm 13-1/2 US cent xuống 5,88-1/2 USD/bushel.
Giá đường thô kết thúc phiên này tăng 0,4% lên 23,98 US cent/lb, trong khi đường trắng tăng 1,4% lên 665,7 USD/tấn.
Giá cà phê arabica giảm 1,1% xuống 1,8585 USD/lb, cà phê robusta giảm 0,2% xuống 3.109 USD/tấn.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản ổn định khi các nhà đầu tư kiềm chế thực hiện những đặt cược lớn trước đợt nghỉ Tết dài ngày ở Trung Quốc.
Hợp đồng cao su giao tháng 7 trên sàn giao dịch Osaka vững ở mức 277,6 JPY (1,87 USD)/kg.
Tại Thượng Hải hợp đồng kỳ hạn tháng 5 tăng 90 CNY lên 13.365 CNY (1.857,69 USD)/tấn. Hợp đồng cao su giao tháng 3 trên nền tảng SICOM của Sàn giao dịch Singapore được giao dịch lần cuối ở mức 151,20 US cent/kg, giảm 0,13%.
Thị trường cao su nhìn chung trầm lắng trước kỳ nghỉ Tết Nguyên đán và hầu hết các nhà máy lốp xe tại Trung Quốc sẽ dừng hoạt động.
“Trong tương lai, yếu tố chính tác động đến giá cao su là mùa đông sớm ở Thái Lan và Việt Nam, nhưng việc tăng giá sẽ chủ yếu phụ thuộc vào nhu cầu mạnh hơn, điều này vẫn còn được xem xét trong bối cảnh các yếu tố vĩ mô ở Trung Quốc tiếp tục trì trệ,” Farah Miller, Giám đốc điều hành của Helixtap Technologies, một công ty dữ liệu độc lập tập trung vào cao su, cho biết.
Giá tiêu dùng của Trung Quốc trong tháng 1 giảm với tốc độ mạnh nhất trong hơn 14 năm trong khi giá sản xuất cũng giảm, gia tăng áp lực buộc các nhà hoạch định chính sách phải hành động nhiều hơn nữa để vực dậy nền kinh tế đang thiếu niềm tin và đối mặt với rủi ro giảm phát.
Doanh số bán xe tháng 1 của Trung Quốc giảm 22,7% so với tháng trước, trong khi doanh số bán xe sử dụng năng lượng mới giảm 38,8%, mức giảm đầu tiên kể từ tháng 8 năm 2023.
Giá cập nhật:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
z
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
76,19
|
-0,03
|
-0,04%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
81,55
|
-0,08
|
-0,10%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
234,75
|
+0,55
|
+0,23%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
1,87
|
-0,05
|
-2,61%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
288,92
|
-0,16
|
-0,06%
|
Vàng (Comex)
|
USD/ounce
|
2.049,30
|
+1,40
|
+0,07%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
2.034,63
|
+0,11
|
+0,01%
|
Bạc (Comex)
|
USD/ounce
|
22,68
|
+0,04
|
+0,19%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
894,49
|
+4,67
|
+0,52%
|
Đồng (Comex)
|
US cent/lb
|
370,65
|
+0,45
|
+0,12%
|
Đồng (LME)
|
USD/tấn
|
8.193,50
|
-118,50
|
-1,43%
|
Nhôm (LME)
|
USD/tấn
|
2.221,50
|
-0,50
|
-0,02%
|
Kẽm (LME)
|
USD/tấn
|
2.327,50
|
-73,00
|
-3,04%
|
Thiếc (LME)
|
USD/tấn
|
25.895,00
|
+408,00
|
+1,60%
|
Ngô (CBOT)
|
US cent/bushel
|
431,75
|
-1,50
|
-0,35%
|
Lúa mì (CBOT)
|
US cent/bushel
|
590,50
|
+2,00
|
+0,34%
|
Lúa mạch (CBOT)
|
US cent/bushel
|
380,25
|
+1,50
|
+0,40%
|
Gạo thô (CBOT)
|
USD/cwt
|
18,68
|
+0,03
|
+0,13%
|
Đậu tương (CBOT)
|
US cent/bushel
|
1.193,50
|
0,00
|
0,00%
|
Khô đậu tương (CBOT)
|
USD/tấn
|
345,50
|
-1,60
|
-0,46%
|
Dầu đậu tương (CBOT)
|
US cent/lb
|
48,12
|
+0,18
|
+0,38%
|
Hạt cải (ICE)
|
CAD/tấn
|
593,50
|
-2,20
|
-0,37%
|
Cacao (ICE)
|
USD/tấn
|
5.535,00
|
+294,00
|
+5,61%
|
Cà phê (ICE)
|
US cent/lb
|
185,85
|
-2,00
|
-1,06%
|
Đường thô (ICE)
|
US cent/lb
|
23,98
|
+0,10
|
+0,42%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)
|
US cent/lb
|
383,65
|
-7,30
|
-1,87%
|
Bông (ICE)
|
US cent/lb
|
89,75
|
+0,07
|
+0,08%
|
Lông cừu (ASX)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ (CME)
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su Singapore
|
US cent/kg
|
151,80
|
+0,40
|
+0,26%
|
Ethanol (CME)
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|