Năng lượng: Giá dầu kết thúc tháng 10 tương đương đầu tháng
Phiên giao dịch cuối cùng của tháng 10/2024 (31/10), giá dầu tăng 2 USD/thùng, sau khi liên tiếp tăng ở mấy phiên liền trước, do có tin Iran đang chuẩn bị tấn công Israel trong những ngày tới.
Kết thúc phiên này, giá dầu thô WTI kỳ hạn tương lai tăng 2,15 USD, tương đương 3,13%, lên 70,76 USD/thùng; dầu Brent kỳ hạn tháng 1/2025 tăng 2,10 USD, tương đương 2,91%, lên 74,26 USD/thùng trong tháng 1/2025.
Tình báo Israel cho rằng Iran đang chuẩn bị tấn công Israel từ lãnh thổ Iraq trong những ngày tới, có thể là trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào ngày 5 tháng 11, Axios đưa tin vào thứ năm, trích dẫn hai nguồn tin giấu tên của Israel.
Báo cáo của Axios cho biết thêm rằng cuộc tấn công dự kiến sẽ được thực hiện từ Iraq bằng cách sử dụng một số lượng lớn máy bay không người lái và tên lửa đạn đạo. Báo cáo cho biết việc thực hiện cuộc tấn công thông qua lực lượng dân quân ủng hộ Iran ở Iraq có thể là một nỗ lực của Tehran nhằm tránh một cuộc tấn công khác của Israel vào các mục tiêu chiến lược ở Iran.
“Điều này đặt lại khả năng Israel có thể tấn công Iran một lần nữa”, Phil Flynn, Reuters dẫn lời nhà phân tích cấp cao tại Price Futures Group, cho biết, đồng thời cảnh báo rằng cơ sở hạ tầng của Iran có thể không nằm ngoài giới hạn tấn công.
Iran là thành viên của OPEC với sản lượng khoảng 3,2 triệu thùng mỗi ngày hoặc 3% sản lượng toàn cầu.
Khả năng OPEC+ có thể trì hoãn việc tăng sản lượng dầu dự kiến cũng hỗ trợ giá. Một quyết định có thể được đưa ra sớm nhất là vào tuần tới, Reuters đưa tin. OPEC+ dự kiến sẽ họp vào ngày 1/12 để quyết định các bước tiếp theo trong chính sách sản lượng.
Tại Trung Quốc, quốc gia nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới, hoạt động sản xuất tháng 10 tăng lần đầu tiên sau sáu tháng, cho thấy các biện pháp kích thích đang có hiệu quả.
Mặc dù giá tăng về cuối tuần, song tính chung cả tuần cũng như tháng 10/2024, giá dầu Brent và dầu WTI chỉ thay đổi nhẹ.
Tuần trước, giá dầu đã giảm mạnh với hợp đồng tương lai Brent và WTI giảm hơn 6% vào thứ Hai sau khi Israel tỏ ra kiềm chế trong các cuộc tấn công trả đũa của mình đối với Iran vào cuối tuần.
Tuần này bắt đầu với đợt bán tháo lớn khi giá dầu Brent và WTI tương lai giảm hơn 6% vào thứ Hai sau khi Israel tỏ ra kiềm chế trong các cuộc tấn công trả đũa vào Iran vào cuối tuần.
Nhà phân tích Sahdev của Rystad Energy cho biết: "Một số sự kiện quốc tế diễn ra vào đầu tháng 11 có thể khiến thị trường dầu mỏ gặp biến động mạnh trong những ngày tới", kể tới cuộc bầu cử ở Mỹ, triển vọng nhu cầu của Trung Quốc liên tục yếu, sự bất ổn của OPEC+ và cuộc chiến ở Trung Đông.
Kim loại quý: Giá vàng tăng mạnh trong tháng 10
Giá vàng giảm nhẹ trong phiên cuối cùng của tháng 10 sau khi đạt mức cao kỷ lục lịch sử do việc điều chỉnh xu hướng sau đợt tăng mạnh. Tuy nhiên, nhu cầu mua tài sản “trú ẩn an toàn” trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ đã giúp kim loại quý này có tháng tăng thứ tư liên tiếp.
Kết thúc phiên 31/10, giá vàng giao ngay giảm 1,6% xuống 2.740,45 USD/ounce, sau khi đạt mức cao kỷ lục 2.790,15 USD/ounce trước đó trong phiên; vàng giao sau giảm 1,8% xuống 2.749,3 USD.
Tính chung cả tháng 10/2024, giá vàng tăng khoảng 4%.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay trong phiên 31/10 giảm 3,4% xuống 32,65 USD/ounce; giá bạc đã tăng khoảng 5% trong tháng 10/2024. Giá bạch kim giảm 1,5% xuống 993,05 USD. Giá palladium giảm 3,4% xuống 1.108,64 USD, ghi nhận tháng tăng tốt nhất kể từ tháng 1/2022.
"Giá vàng sẽ bắt đầu đi ngang trong một khoảng thời gian. Có rất nhiều tin tức có tác động lớn vào tuần tới. Cuộc bầu cử Mỹ vào thứ Ba, cuộc họp của Fed vào thứ Tư. Vì vậy, thực sự không có gì ngạc nhiên khi thấy một số nhà giao dịch chốt lời", David Meger, giám đốc giao dịch kim loại tại High Ridge Futures cho biết.
Các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy cựu Tổng thống Mỹ thuộc Đảng Cộng hòa Donald Trump và Phó Tổng thống thuộc Đảng Dân chủ Kamala Harris đang bám đuổi sát nút trong cuộc đua vào Nhà Trắng.
Các yếu tố cơ bản thúc đẩy nhu cầu vàng bao gồm căng thẳng địa chính trị và sự không chắc chắn về kết quả của cuộc bầu cử, với thị trường vẫn ở chế độ "mua khi giảm", nhà phân tích Rhona O'Connell của StoneX cho biết.
"Vàng và đồng USD đang cùng nhau hoạt động như những nơi trú ẩn an toàn, điều này không phải là bất thường trong thời kỳ xung đột." Vàng được coi là khoản đầu tư an toàn trong thời kỳ kinh tế và địa chính trị bất ổn.
Dữ liệu cho thấy chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) của Mỹ đã tăng 0,2% vào tháng 9 sau khi tăng 0,1% trong tháng 8 (số liệu chưa điều chỉnh). Các nhà kinh tế ước tính tăng 0,2%.
Các nhà đầu tư hiện đang chờ đợi báo cáo việc làm Mỹ, sẽ công bố vào thứ Sáu, và dự đoán 95% khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ cắt giảm lãi suất 0,25 điểm phần trăm vào tuần tới, điều này sẽ tiếp tục có lợi cho vàng.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng loạt giảm trong tháng 10
Giá đồng giảm nhẹ trong phiên cuối cùng của tháng 10 do sự không chắc chắn về các biện pháp kích thích kinh tế tiếp theo của Trung Quốc đã ảnh hưởng phần nào đến đà tăng của dữ liệu sản xuất từ nước này, trong bối cảnh các nhà đầu tư chờ đợi kết quả cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào thứ Ba.
Giá đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) kết thúc phiên giảm 0,3% xuống 9.513,50 USD/tấn; đồng giao tháng 12 trên Sở giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) giảm 0,2% xuống 76.540 nhân dân tệ (10.748,79 USD)/tấn.
Tính chung trong tháng 10/2024, giá đồng tại LME giảm 3% trong khi tại SHFE giảm 2,9%.
Giá đồng cuối tháng 9 tăng mạnh lên hơn 10.000 USD/tấn sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cắt giảm lãi suất và Trung Quốc công bố một loạt các chương trình hỗ trợ kinh tế.
Dữ liệu cho thấy hoạt động sản xuất tại Trung Quốc trong tháng 10 tăng trưởng lần đầu tiên sau sáu tháng, cho thấy các biện pháp kích thích đang giúp nền kinh tế đang gặp khó khăn này chuyển hướng.
Tuy nhiên, sau đó giá đã giảm trở lại do thị trường giảm kỳ vọng vào các biện pháp kích thích kinh tế của Trung Quốc vì thiếu thông tin chi tiết.
Về những kim loại cơ bản khác, giá kẽm trong phiên cuối tháng giảm 1,9% xuống 3.028 USD/tấn sau khi lượng tồn kho tăng 5.500 tấn lên 246.725 tấn; nhôm tăng 0,2% lên 2.620 USD/tấn, thiếc tăng 0,9% lên 31.215 USD, chì tăng 0,8% lên 2.020 USD trong khi niken giảm 0,6% xuống 15.725 USD.
Tính chung trong tháng 10, tất cả các kim loại đều giảm giá, trong đó nickel giảm 12%, thiếc giảm 9%, đồng giảm 6%.
Đối với kim loại đen, giá quặng sắt giao tháng 1/2025 trên Sở giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc chốt phiên cuối cùng của tháng 10 giảm 0,38% xuống 781,5 nhân dân tệ (109,75 USD)/tấn, sau khi có lúc đạt 789,5 nhân dân tệ/tấn; quặng sắt giao tháng 12/2024 trên Sở giao dịch Singapore tăng nhẹ 0,05% lên 103,75 USD/tấn, sau khi chạm mức 104,35 USD/tấn.
Tính chung trong tháng 10, giá sắt thép cũng giảm, trong đó quặng sắt giảm 6% và thép giảm khoảng 3%.
Trong những ngày cuối tháng 10, giá quặng giao dịch trong phạm vi hẹp khi dữ liệu ngành công nghiệp lạc quan từ Trung Quốc làm phấn chấn tâm lý nhà đầu tư nhưng đà tăng bị hạn chế khi các nhà đầu tư chờ đợi tín hiệu về các biện pháp kích thích tiếp theo từ Bắc Kinh vào tuần tới.
Dữ liệu chính thức cho thấy hoạt động sản xuất của Trung Quốc tháng 10/2024 mở rộng lần đầu tiên trong sáu tháng, cho thấy các biện pháp kích thích mới nhất của Bắc Kinh đang giúp nền kinh tế suy yếu phục hồi. Tuy nhiên, các nhà đầu tư vẫn thận trọng về các biện pháp kích thích bổ sung, sẽ được Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc (NPC) của Trung Quốc công bố vào tuần tới sau khi kết thúc kỳ họp.
Nông sản: Giá đồng loạt giảm trong tháng 10
Giá đậu tương Mỹ tăng trong phiên cuối cùng của tháng 10 chủ yếu do đồng USD yếu đi và giá dầu mỏ tiếp tục hồi phục. Tuy nhiên, thị trường giao dịch thận trọng trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ tuần tới. Giá ngô và lúa mì phiên này giảm nhẹ.
Chốt phiên, giá đậu tương trên Sở giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) tăng 0,4% lên 9,95-1/2 USD/bushel sau khi tăng hơn 1% trong phiên trước. Ngô giảm 0,3% xuống 4,10-1/4 USD/bushel và lúa mì giảm 0,8% xuống 5,68-1/2 USD/bushel.
Tính chung trong tháng 10, giá đậu tương và lúa mì giảm 6%, trong khi ngô giảm 5%.
Ngân hàng Rabobank dự đoán diện tích trồng đậu tương của Brazil sẽ tăng 1,5% trong vụ mùa 2024/25 so với chu kỳ trước, đạt 47 triệu ha. Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) đã nâng dự báo sản lượng đậu tương của Argentina năm 2024/2025 lên 52 triệu tấn trên diện tích thu hoạch 17,2 triệu ha, khi người sản xuất chuyển sang trồng nhiều đậu tương hơn ngô vì lo ngại về tác động của bệnh đốm lá ngô, giá thấp liên tục và dự kiến thời tiết khô hạn. Vụ đậu tương của Mỹ cũng dồi dào, với USDA cho biết vụ thu hoạch đã hoàn thành 89%, vượt mức trung bình 5 năm là 78%, với vụ mùa 2024 kỷ lục.
Bộ Nông nghiệp Trung Quốc cho biết nước nhập khẩu đậu tương lớn nhất thế giới này sẵn sàng hợp tác chặt chẽ hơn với Nga trong lĩnh vực đậu tương.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2025 kết thúc phiên cuối cùng của tháng 10 tăng 0,52 cent, tương đương 2,3%, lên 22,74 cent/lb sau khi thiết lập mức cao hai tuần là 22,82 cent; đường trắng giao tháng 12 tăng 1,2% lên 576,50 USD/tấn.
Tính chung trong tháng 10, giá đường giảm nhẹ.
Các nhà kinh doanh cho biết trọng tâm chú ý của thị trường vẫn là mưa ở Brazil có thể hạn chế việc nghiền ép mía trong mùa hiện tại nhưng thúc đẩy triển vọng cho vụ mùa năm sau. Tuy nhiên, các nhà phân tích của Rabobank dự đoán lượng mía ép lấy đường ở Trung Nam 2025/26 của Brazil ở mức 580 triệu tấn, có thể thấp hơn so với mùa hiện tại.
Hợp đồng cà phê robusta giao tháng 1/2025 kết thúc phiên 31/10 giảm 84 USD, tương đương 1,9%, xuống 4.369 USD/tấn; cà phê arabica giao tháng 12/2024 giảm 1,5% xuống 2,459 USD/lb. Tính chung trong tháng 10, giá cà phê giảm khoảng 3%.
Các đại lý đang theo dõi chặt chẽ xem liệu cơn bão nhiệt đới Trami có ảnh hưởng gì đến vụ thu hoạch robusta ở Việt Nam hay không.
Ngân hàng Rabobank dự đoán xuất khẩu từ Brazil sẽ giảm trong nửa đầu năm 2025 do sản lượng năm nay nhỏ hơn dự kiến.
Bão Trami đổ bộ vào Việt Nam hôm Chủ nhật tuần trước với những cơn mưa lớn ở Tây Nguyên trong hai ngày nhưng các thương nhân cho biết không ảnh hưởng tới vụ cà phê. Các thương nhân dự kiến hoạt động giao dịch cà phê sẽ đạt đỉnh từ cuối tháng 11 khi nguồn cung dồi dào.
Giá cao su tại Nhật Bản phiên 31/10 phục hồi nhờ hy vọng về các biện pháp kích thích kinh tế tiếp theo của Trung Quốc.
Giá cao su đã kết thúc chuỗi sáu phiên giảm vào thứ năm do thị trường ngày càng hy vọng Trung Quốc sẽ công bố các biện pháp kích thích kinh tế tiếp theo.
Hợp đồng cao su giao tháng 4/2025 trên Sàn giao dịch Osaka (OSE) phiên này tăng 1,54% lên 358,5 yên (2,35 USD)/kg. Mặc dù vậy, tính chung trong tháng 10, giá giảm 11,1%, là tháng giảm đầu tiên giảm trong vòng ba tháng qua.
Hợp đồng cao su giao tháng 1/2025 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) tăng 40 nhân dân tệ, tương đương 0,22%, lên 17.835 nhân dân tệ (2.505,65 USD)/tấn. Hợp đồng này đã giảm 6,8% trong tháng 10.
Giá hàng hóa thế giới:
Mặt hàng
|
ĐVT
|
31/10
|
So với phiên trước
|
So với 1 tuần trước
|
So với 1 tháng trước
|
So với 1 năm trước
|
CRB index
|
Điểm
|
334,04
|
-0,13%
|
-0,80%
|
-1,90%
|
10,83%
|
LME index
|
Điểm
|
4138,30
|
-0,31%
|
-1,05%
|
-4,55%
|
10,00%
|
WTI
|
USD/thùng
|
71,123
|
2,69%
|
-0,92%
|
1,46%
|
-0,74%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
74,642
|
2,52%
|
-1,89%
|
0,97%
|
-3,15%
|
Khí gas
|
USD/MMBtu
|
2,7154
|
0,31%
|
-12,18%
|
-5,91%
|
16,69%
|
Xăng
|
USD/gallon
|
2,0136
|
0,62%
|
-3,29%
|
-0,01%
|
-5,29%
|
Dầu đốt
|
USD/gallon
|
2,2766
|
0,54%
|
1,78%
|
3,59%
|
-8,76%
|
Than
|
USD/tấn
|
144,05
|
-0,66%
|
-1,27%
|
0,98%
|
-1,61%
|
Vàng
|
USD/ounce
|
2751,20
|
0,16%
|
0,12%
|
3,40%
|
33,37%
|
Bạc
|
USD/ounce
|
32,813
|
0,45%
|
-2,69%
|
2,97%
|
38,02%
|
Đồng
|
USD/lb
|
4,3392
|
0,60%
|
-0,14%
|
-5,62%
|
11,78%
|
Thép thanh vằn
|
CNY/tấn
|
3290,00
|
1,14%
|
1,45%
|
-2,37%
|
-16,24%
|
Quặng sắt TQ
|
USD/tấn
|
103,78
|
-0,29%
|
-0,59%
|
-4,56%
|
-23,90%
|
Thép cuộn cán nóng
|
USD/tấn
|
705,07
|
-1,39%
|
-0,69%
|
-1,39%
|
-35,49%
|
Nhôm
|
USD/tấn
|
2644,00
|
0,72%
|
-1,16%
|
-1,49%
|
10,91%
|
Thiếc
|
USD/tấn
|
30950
|
-0,43%
|
0,14%
|
-8,65%
|
21,78%
|
Kẽm
|
USD/tấn
|
3043,00
|
0,13%
|
-2,12%
|
-4,91%
|
14,41%
|
Nickel
|
USD/tấn
|
15992
|
1,65%
|
-0,97%
|
-12,26%
|
-2,38%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
992,48
|
1,02%
|
0,48%
|
-6,02%
|
-23,54%
|
Lúa mì
|
US cent/bushel
|
575,45
|
0,87%
|
1,13%
|
-6,47%
|
-8,37%
|
Dầu cọ
|
Ringgit/tấn
|
4856,00
|
3,43%
|
7,13%
|
15,73%
|
30,50%
|
Sữa
|
USD/cwt
|
20,15
|
0,15%
|
-11,35%
|
-12,28%
|
25,16%
|
Cao su
|
JPY/kg
|
197,30
|
1,96%
|
1,49%
|
-7,41%
|
26,39%
|
Càphê
|
US cent/lb
|
248,47
|
1,00%
|
0,35%
|
-3,05%
|
31,96%
|
Đường
|
US cent/lb
|
70,22
|
0,92%
|
-0,65%
|
-1,63%
|
-13,31%
|
Bông
|
US cent/lb
|
22,90
|
0,50%
|
3,61%
|
1,18%
|
11,26%
|
Chè
|
USD/kg
|
248,47
|
1,00%
|
0,35%
|
-3,05%
|
31,96%
|
Cacao
|
USD/tấn
|
7297,24
|
-0,48%
|
7,24%
|
3,66%
|
73,48%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
413,0774
|
0,57%
|
-0,52%
|
-4,49%
|
-12,34%
|