Năng lượng: Giá dầu tăng mạnh trong tuần
Giá dầu tăng khoảng 1% vào thứ Sáu lên mức cao nhất trong hai tuần, khi cuộc chiến leo thang ở Ukraine trong tuần này đã thúc đẩy mức phí bảo hiểm rủi ro địa chính trị tăng lên.
Giá dầu Brent kết thúc phiên tăng 94 US cent, tương đương 1,3%, lên 75,17 USD/thùng; dầu WTI tăng 1,14 USD, hay 1,6%, lên 71,24 USD.
Cả hai loại dầu đều tăng khoảng 6% trong tuần và kết thúc tuần ở mức đóng cửa cao nhất kể từ ngày 7/11.
Tổng thống Vladimir Putin cho biết Nga sẽ tiếp tục thử nghiệm tên lửa siêu thanh Oreshnik mới của mình và đã có một kho dự trữ sẵn sàng để sử dụng.
Trong khi đó, Mỹ đã áp đặt các lệnh trừng phạt mới đối với Gazprombank của Nga khi Tổng thống Joe Biden tăng cường các hành động trừng phạt Moscow trước khi ông rời nhiệm sở vào ngày 20/1/2025. Điện Kremlin cho biết các lệnh trừng phạt mới của Mỹ là cản trở mới của Washington nhằm cản trở việc xuất khẩu khí đốt của Nga, nhưng lưu ý rằng sẽ tìm ra giải pháp.
Mỹ cũng cấm thực phẩm, kim loại và các mặt hàng nhập khẩu khác từ khoảng 30 công ty Trung Quốc khác vì cáo buộc liên quan đến vấn đề lao động.
Trung Quốc, quốc gia nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới, tuần này đã công bố các chính sách thúc đẩy thương mại, bao gồm hỗ trợ nhập khẩu sản phẩm năng lượng, trong bối cảnh lo ngại Tổng thống Mỹ mới đắc cử Donald Trump áp thuế quan mới.
Theo các nhà phân tích, thương nhân và dữ liệu theo dõi tàu, lượng dầu thô nhập khẩu của Trung Quốc dự kiến sẽ phục hồi trong tháng 11.
Theo dữ liệu của chính phủ, lượng dầu nhập khẩu cũng tăng ở Ấn Độ, quốc gia nhập khẩu dầu lớn thứ ba thế giới, do lượng tiêu thụ trong nước tăng.
Bên cạnh những yếu tố đẩy giá dầu tăng cũng có những yếu tố gây áp lực giảm giá. Hoạt động kinh doanh của khu vực đồng euro đã có một bước ngoặt đáng ngạc nhiên theo chiều hướng xấu đi trong tháng này khi ngành dịch vụ - chiếm ưu thế của khối này - suy thoái và sản xuất chìm sâu hơn vào suy thoái.
Tại Đức, nền kinh tế lớn nhất Châu Âu, nền kinh tế tăng trưởng trong quý 3 thấp hơn ước tính trước đó.
Kim loại quý: Giá vàng tăng mạnh trong tuần
Giá vàng phiên thứ Sáu đã vượt ngưỡng 2.700 USD lần đầu tiên sau hơn hai tuần, hướng đến tuần tăng mạnh nhất trong gần hai năm, do nhu cầu trú ẩn an toàn, mặc dù đồng USD cũng tăng và thị trường giảm kỳ vọng vào việc Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng tới.
Vàng giao ngay kết thúc phiên thứ Sáu tăng 1,5% lên 2.709,24 USD/ounce, cao nhất kể từ ngày 6 tháng 11. Giá vàng kỳ hạn tháng 12/2024 tăng 1,4% lên 2.712,20 USD/ounce.
Alex Ebkarian, giám đốc điều hành tại Allegiance Gold cho biết: "Cuộc xung đột Nga-Ukraine leo thang có vẻ như đang mở rộng thành một cuộc xung đột Nga-Mỹ và điều đó chắc chắn đang thúc đẩy sức hấp dẫn của nơi trú ẩn an toàn trong ngắn hạn".
Vàng thỏi đã tăng hơn 5,7% trong tuần này, là tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 3 năm 2023, khi một làn sóng khủng hoảng ngân hàng làm chao đảo thị trường toàn cầu và thúc đẩy nhu cầu về tài sản an toàn hơn.
Sự gia tăng của vàng trong tuần này được thúc đẩy bởi cuộc khủng hoảng Nga-Ukraine đang gia tăng, nâng giá tăng hơn 170 USD từ mức thấp nhất 2tháng là 2.536,71 đô la vào thứ năm tuần trước.
Vàng thỏi có xu hướng tỏa sáng trong thời kỳ căng thẳng địa chính trị, rủi ro kinh tế và trong môi trường lãi suất thấp.
Vàng tiếp tục tăng vào thứ Sáu ngay cả khi đồng USD đạt mức cao nhất trong hai năm và bitcoin đạt mức cao nhất mọi thời đại.
Kỳ vọng vào việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 12 đã giảm xuống chỉ còn 53%, giảm mạnh so với mức 82,5% chỉ một tuần trước đó.
Một số nhà hoạch định chính sách của Fed tuần này đã bày tỏ lo ngại rằng tiến trình lạm phát có thể đã bị đình trệ, ủng hộ sự thận trọng, trong khi những người khác nhấn mạnh sự cần thiết phải tiếp tục cắt giảm lãi suất.
Với những thay đổi chính sách đang diễn ra và rủi ro lạm phát từ mức thuế quan thương mại do Tổng thống Mỹ mới đắc cử Donald Trump đề xuất, triển vọng của vàng vẫn mạnh mẽ, có thể đạt 2.750 USD vào giữa tháng 12, Ebkarian cho biết.
Về những kim loại cơ bản khác, giá bạc giao ngay tăng 1,5% trong phiên thứ Sáu lên 31,24 USD/ounce, palladium giảm 1,4% xuống 1.015,00 đô la, trong khi bạch kim tăng 0,6% lên 964,36 đô la. Cả ba kim loại này đều tăng trong tuần.
"Theo quan điểm của chúng tôi, giá bạch kim nói riêng sẽ tăng đáng kể, vì thị trường năm 2025có khả năng thâm hụt trong năm thứ ba liên tiếp", các nhà phân tích của Commerzbank lưu ý.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá 15/11
|
Giá 22/11
|
Giá 22/11 so với 21/11
|
Giá 22/11 so với 21/11 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
67,02
|
71,24
|
+1,14
|
+1,63%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
71,04
|
75,17
|
+0,94
|
+1,27%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
194,93
|
206,14
|
+0,20
|
+0,10%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,82
|
3,13
|
-0,21
|
-6,29%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
217,09
|
227,49
|
+0,05
|
+0,02%
|
Vàng (Comex)
|
USD/ounce
|
2.570,10
|
2.737,20
|
+37,90
|
+1,40%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
2.563,25
|
2.716,19
|
+46,47
|
+1,74%
|
Bạc (Comex)
|
USD/ounce
|
30,43
|
31,78
|
+0,40
|
+1,27%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
941,80
|
966,30
|
+1,89
|
+0,20%
|
Đồng (Comex)
|
US cent/lb
|
410,90
|
413,30
|
-3,10
|
-0,74%
|
Đồng (LME)
|
USD/tấn
|
9.002,50
|
8.968,00
|
-40,50
|
-0,45%
|
Nhôm (LME)
|
USD/tấn
|
2.649,50
|
2.624,00
|
-7,50
|
-0,29%
|
Kẽm (LME)
|
USD/tấn
|
2.947,50
|
2.966,50
|
-23,50
|
-0,79%
|
Thiếc (LME)
|
USD/tấn
|
28.742,00
|
28.914,00
|
+164,00
|
+0,57%
|
Ngô (CBOT)
|
US cent/bushel
|
435,25
|
435,25
|
-1,00
|
-0,23%
|
Lúa mì (CBOT)
|
US cent/bushel
|
554,00
|
564,75
|
-4,75
|
-0,83%
|
Lúa mạch (CBOT)
|
US cent/bushel
|
368,75
|
370,50
|
+3,75
|
+1,02%
|
Gạo thô (CBOT)
|
USD/cwt
|
15,05
|
15,15
|
-0,02
|
-0,16%
|
Đậu tương (CBOT)
|
US cent/bushel
|
998,50
|
983,50
|
+5,75
|
+0,59%
|
Khô đậu tương (CBOT)
|
USD/tấn
|
290,80
|
291,50
|
+2,10
|
+0,73%
|
Dầu đậu tương (CBOT)
|
US cent/lb
|
45,49
|
41,84
|
-0,44
|
-1,04%
|
Hạt cải (ICE)
|
CAD/tấn
|
646,70
|
592,20
|
-2,80
|
-0,47%
|
Cacao (ICE)
|
USD/tấn
|
8.504,00
|
9.085,00
|
+450,00
|
+5,21%
|
Cà phê (ICE)
|
US cent/lb
|
283,30
|
302,10
|
+6,40
|
+2,16%
|
Đường thô (ICE)
|
US cent/lb
|
21,58
|
21,36
|
-0,02
|
-0,09%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)
|
US cent/lb
|
480,25
|
505,40
|
-5,80
|
-1,13%
|
Bông (ICE)
|
US cent/lb
|
68,91
|
70,77
|
+0,34
|
+0,48%
|
Lông cừu (ASX)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ (CME)
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Cao su Singapore
|
US cent/kg
|
187,50
|
189,30
|
-3,40
|
-1,76%
|
Ethanol (CME)
|
USD/gallon
|
2,16
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|