Năng lượng: Giá dầu tăng trong tuần
Phiên cuối tuần, giá dầu tăng do tình hình Trung Đông gia tăng căng thẳng. Tính chung cả tuần, giá cũng tăng.
Theo đó, dầu thô Brent kết thúc phiên thứ Sáu tăng 1,17 USD, tương đương 1,51%, lên 78,76 USD/thùng, tính chung cả tuần giá tăng 2 USD; dầu ngọt nhẹ Mỹ kết thúc phiên này tăng 1,62 USD, tương đương 2,24%, lên 73,81 USD; tính chung cả tuần tăng 1,5 USD.
Tập đoàn vận tải biển khổng lồ Maersk cảnh báo khách hàng về sự gián đoạn cung cấp và cho biết họ sẽ chuyển hướng tất cả các tàu ra khỏi Biển Đỏ trong tương lai gần.
Báo cáo từ Chính phủ Mỹ cho thấy số việc làm mới của nước này tăng trong tháng 12 sẽ hỗ trợ nhu cầu xăng dầu trong năm tới. Bộ Lao động Mỹ cho biết bảng lương phi nông nghiệp tại nước này tăng 216.000 việc làm trong tháng 12/2023. Các nhà kinh tế được Reuters thăm dò đã dự báo con số này chỉ là 170.000 việc làm.
Trong tháng 12/2023, các nhà tuyển dụng Mỹ đã thuê lại dấy lên kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang sẽ bắt đầu cắt giảm lãi suất vào tháng 3/2024.
Bank of America dự đoán giá dầu Brent sẽ giao dịch trong khoảng 70 – 90 USD/thùng do OPEC+ tiếp tục can thiệp vào nguồn cung.
Công ty dịch vụ mỏ dầu Baker Hughes cho biết số lượng giàn khoan đang hoạt động – tổng số giàn khoan dầu và khí tự nhiên - đã giảm 1 giàn trong tuần trước xuống 621 giàn, mức giảm thứ ba trong bốn tuần. Số giàn khoan dầu thô tăng 1 giàn lên 501 trong khi số giàn khoan khí đốt tự nhiên giảm 2 giàn xuống 118.
Kim loại quý: Giá vàng giảm gần 1% trong tuần
Giá vàng phiên cuối tuần dao động trong biên độ hẹp do dữ liệu kinh tế Mỹ cho thấy vừa có yếu tố tích cực, vừa có yếu tố tiêu cực. Tính chung cả tuần, giá vàng giảm lần đầu tiên trong vòng 4 tuần do đồng USD mạnh lên và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng.
Kết thúc phiên thứ Sáu, giá vàng giao ngay tăng 0,1% lên 2.044,21 USD/ounce, trong phiên cố lúc tăng khoảng 1%. Tính chung cả tuần, giá giảm gần 1%. Vàng kỳ hạn tương lai phiên này vững ở 2.049,80 USD.
Giá bạc phiên thứ 6 tăng 0,8% lên 23,17 USD/ounce, nhưng tính chung cả tuần giảm tuần thứ 2 liên tiếp, trong khi bạch kim tăng 0,5% lên 961,53 USD vào thứ Sáu, nhưng tính chung cả tuần giảm mạnh nhất trong 8 tuần. Giá palladium giảm 0,9% xuống mức thấp nhất trong ba tuần là 1.027,11 USD, là phiên thứ 9 liên tiếp giảm; tính chung cả tuần giảm 6,4%.
Dữ liệu việc làm tháng 12 của Mỹ tích cực đẩy USD và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng, với lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm đều đạt mức cao nhất trong ba tuần. Tính chung cả tuần, USD tăng mạnh nhất kể từ tháng 7, trong khi lợi suất trái phiếu tăng mạnh nhất kể từ tháng 10. Theo công cụ CME FedWatch, thị trường kỳ vọng khả năng Fed cắt giảm lãi suất khoảng 67% vào tháng 3/2024. Lãi suất giảm sẽ giúp giảm hi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng không sinh lời.
Trên thị trường Ấn Độ, nhu cầu vàng tuần này tăng do giá giảm khỏi mức cao kỷ lục.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm trong tuần, quặng sắt tăng
Giá đồng tăng trở lại vào thứ Sáu, sau khi chạm mức thấp nhất ba tuần khi USD giảm sau dữ liệu ngành dịch vụ yếu kém của Mỹ và khiến kim loại định giá bằng đô la trở nên hấp dẫn hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác. Dấu hiệu thắt chặt nguồn cung và tồn kho mỏng ở nước tiêu thụ hàng đầu Trung Quốc cũng đang hỗ trợ đồng.
Đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) phiên thứ Sáu tăng lên 8.464,5 USD/tấn sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 13/12/2023 là 8.416 USD. Mặc dù vậy, tính chung cả tuần, giá đồng giảm 1%.
Đối với những kim loại cơ bản khác, giá niken trên sàn LME phiên thứ Sáu tăng 1,7% lên 16.330 USD/tấn sau khi giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 27/11, là 15.895 USD. Niken đã giảm 45% vào năm 2023 trong bối cảnh sản lượng tăng ở Indonesia. Giá nhôm phiên thứ Sáu giảm 0,2% xuống 2.275,5 USD/tấn, kẽm tăng 0,7% lên 2.556,5 USD, thiếc giảm 0,7% xuống 24.665 USD và chì tăng 1,8% lên 2.079 USD. Tính chung cả tuần, giá các kim loại này hầu hết giảm.
Trong nhóm kim loại đen, gía quặng sắt giảm trong phiên cuối tuần do nhu cầu ngắn hạn ảm đạm và tồn kho cảng tăng cao hơn dự kiến ở Trung Quốc làm suy yếu tâm lý nhà đầu tư và làm giảm nhu cầu mua đối với nguyên liệu sản xuất thép quan trọng.
Quặng sắt giao tháng 5/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc kết thúc phiên giảm 1,38% xuống 1.000 nhân dân tệ (139,56 USD)/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá tăng gần 3%. Quặng sắt kỳ hạn tháng 2/2024 trên Sàn giao dịch Singapore giảm 1,87% xuống 138,5 USD/tấn và giảm 0,2% trong tuần.
Tại Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải, giá thép thanh vằn giảm 1,39%, thép cuộn cán nóng giảm 1,71%, thanh thép giảm 1,76% và thép không gỉ giảm 2,19%.
Ngân hàng trung ương Trung Quốc đã cho các ngân hàng chính sách vay 350 tỷ nhân dân tệ thông qua cơ chế cho vay bổ sung cũng là yếu tố hỗ trợ nhu cầu quặng và thép.
Tồn trữ quặng sắt tại cảng tăng 2,1% trong tuần lên 122,45 triệu tấn, tính đến ngày 5/1, mức cao nhất kể từ tháng 8/2023, theo dữ liệu của Mysteel.
Nông sản: Giá ngũ cốc và cà phê giảm trong tuần, đường tăng
Giá đậu tương Mỹ phiên cuối tuần giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 6/2023, tính chung và giảm tuần thứ ba liên tiếp khi mưa xuống các vùng trồng trọt khô hạn ở Brazil.
Kết thúc phiên này, trên sàn Chicago, đậu tương kỳ hạn tháng 3/2024 giảm 11-1/4 cent xuống 12,56-1/4 USD/bushel sau khi chạm mức giá thấp nhất kể từ ngày 15/6; ngô kỳ hạn tháng 3/2024 giảm 5-3/4 cent xuống 4,60-3/4 USD/bushel và chạm mức thấp nhất của hợp đồng này, là 4,60 USD; lkỳ hạn tháng 3/2024 tăng 2-1/2 cent lên 6,16 USD/bushel.
Tiính chung cả tuần, giá đậu tương giảm khoảng 3,2%, trong khi ngô giảm 2,2% và lúa mì giảm 1,9% tại CBOT.
Bộ Nông nghiệp Mỹ hôm thứ Sáu báo cáo doanh số xuất khẩu đậu tương niên vụ 2023/24 của Mỹ trong tuần kết thúc vào ngày 28/12/2023 là 201.600 tấn, thấp hơn kỳ vọng của các nhà phân tích là 500.000 đến 1.300.000 tấn. Doanh số bán ngô và lúa mì hàng tuần của Mỹ cũng không đạt kỳ vọng.
Tuần tới, USDA dự kiến sẽ công bố báo cáo dự trữ ngũ cốc hàng quý của Mỹ và dữ liệu hàng tháng về cung/cầu toàn cầu. Công ty tư vấn kinh doanh nông nghiệp Safras &; Mercado đã hạ dự báo vụ mùa của Brazil từ 158,23 triệu tấn xuống còn151,36 triệu tấn.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2024 phiên thứ Sáu vững ở mức 21,11 cent/lb, tính chung cả tuần giá tăng 2,5%. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 3/2024 cũng vững ở mức 607,10 USD/tấn.
Brazil đã xuất khẩu thêm 75% đường trong tháng 12 so với một năm trước. Thái Lan dự kiến sẽ sản xuất 8-8,5 triệu tấn đường trong niên vụ 2023/24. Sản lượng đường của Trung Quốc niên vụ 2023/24 được dự báo ở mức 3,2 triệu tấn, giảm 60.000 tấn so với một năm trước đó.
Giá cà phê Arabica trên sàn ICE phiên thứ Sáu chạm mức thấp nhất trong một tháng và kết thúc tuần với mức lỗ ròng 3%, trong bối cảnh các chỉ số hàng hóa tái cân bằng và dự báo mưa ở nước trồng hàng đầu Brazil.
Cà phê arabica kỳ hạn giảm 2,75 cent, tương đương 1,5%, xuống 1,828 USD/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 1 tháng trước đó, ở mức 1,820 USD. Các đại lý cho biết việc tái cân bằng các chỉ số hàng hóa (commodity indexes) trong tháng 1/2024 có khả năng dẫn đến việc các quỹ tăng cường bán cà phê arabica kỳ hạn. Thời tiết vẫn chủ yếu là tích cực cho sự phát triển cây trồng ở Brazil, tiếp tục cho thấy xuất khẩu tốt. Brazil đã xuất khẩu 4,06 triệu bao cà phê nhân trong tháng 12/2023, tăng 33% so với một năm trước.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 3/2024 phiên thứ Sáu tăng 0,3%, lên 2.795 USD/tấn, nối dài đà tăng của phiên trước. Tuy nhiên, hợp đồng này đã giảm 2% trong tuần. Các đại lý cho biết giá cần tăng hơn nữa để thu hút nông dân Việt Nam bán với khối lượng thường xuyên. Trong khi đó, các nhà xuất khẩu đang phải vật lộn để đối phó với sự chậm trễ giao hàng từ nông dân.
Giá cao su kỳ hạn trên thị trường Nhật Bản tăng cao được củng cố bởi dữ liệu cho thấy nhu cầu ô tô mạnh mẽ, trong khi giông bão ở nhà cung cấp hàng đầu Thái Lan làm dấy lên lo ngại về nguồn cung.
Phiên thứ Sáu, hợp đồng cao su giao tháng 6/2024 trên sàn Osaka (OSE) tăng 1,3 yên, tương đương 0,51%, lên 256,2 yên (1,77 USD)/kg. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá đã giảm 0,3%, tuần giảm đầu tiên trong bốn tuần.
Giá cao su giao tháng 5/2024 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE) giảm 55 nhân dân tệ, tương đương 0,39%, xuống 13.915 nhân dân tệ (1.943,73 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 2/2024 trên sàn Singapore chốt phiên thứ Sáu ở mức 153,90 US cent/kg, tăng 1,18%.
Cục Khí tượng Thái Lan cảnh báo miền Nam nước này sẽ có mưa giông từ ngày 5-10/1, có khả năng ảnh hưởng đến nguồn cung cao su thiên nhiên.
Thị trường tài chính Nhật Bản sẽ đóng cửa vào ngày 8/1 và giao dịch sẽ tiếp tục trở lại vào ngày 9/1.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
30/12/2023
|
5/1/2024
|
5/1 so với 4/1
|
5/1 so với 4/1 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
71,65
|
73,50
|
-0,31
|
-0,42%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
77,04
|
78,45
|
-0,31
|
-0,39%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
210,63
|
209,49
|
-1,06
|
-0,50%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,51
|
2,89
|
-0,01
|
-0,28%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
252,89
|
262,21
|
+1,36
|
+0,52%
|
Vàng (Comex)
|
USD/ounce
|
2.071,80
|
2.052,30
|
+2,50
|
+0,12%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
2.062,98
|
2.043,98
|
-1,47
|
-0,07%
|
Bạc (Comex)
|
USD/ounce
|
24,09
|
23,38
|
+0,07
|
+0,28%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
991,90
|
966,88
|
+2,70
|
+0,28%
|
Đồng (Comex)
|
US cent/lb
|
389,05
|
382,75
|
+2,15
|
+0,56%
|
Đồng (LME)
|
USD/tấn
|
8.559,00
|
8.463,00
|
-3,50
|
-0,04%
|
Nhôm (LME)
|
USD/tấn
|
2.384,00
|
2.273,50
|
-7,50
|
-0,33%
|
Kẽm (LME)
|
USD/tấn
|
2.658,00
|
2.562,50
|
+24,50
|
+0,97%
|
Thiếc (LME)
|
USD/tấn
|
25.415,00
|
24.622,00
|
-212,00
|
-0,85%
|
Ngô (CBOT)
|
US cent/bushel
|
471,25
|
461,50
|
+0,75
|
+0,16%
|
Lúa mì (CBOT)
|
US cent/bushel
|
628,00
|
611,75
|
-4,25
|
-0,69%
|
Lúa mạch (CBOT)
|
US cent/bushel
|
385,75
|
357,50
|
+4,50
|
+1,27%
|
Gạo thô (CBOT)
|
USD/cwt
|
17,52
|
17,54
|
-0,08
|
-0,48%
|
Đậu tương (CBOT)
|
US cent/bushel
|
1.298,00
|
1.257,75
|
+1,50
|
+0,12%
|
Khô đậu tương (CBOT)
|
USD/tấn
|
386,00
|
369,30
|
-0,10
|
-0,03%
|
Dầu đậu tương (CBOT)
|
US cent/lb
|
48,18
|
47,62
|
-0,01
|
-0,02%
|
Hạt cải (ICE)
|
CAD/tấn
|
653,40
|
620,40
|
+1,50
|
+0,24%
|
Cacao (ICE)
|
USD/tấn
|
4.196,00
|
4.204,00
|
-56,00
|
-1,31%
|
Cà phê (ICE)
|
US cent/lb
|
188,30
|
182,80
|
-2,75
|
-1,48%
|
Đường thô (ICE)
|
US cent/lb
|
20,58
|
21,11
|
+0,03
|
+0,14%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)
|
US cent/lb
|
312,55
|
320,20
|
-7,00
|
-2,14%
|
Bông (ICE)
|
US cent/lb
|
81,00
|
80,19
|
+0,07
|
+0,09%
|
Lông cừu (ASX)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ (CME)
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Cao su Singapore
|
US cent/kg
|
154,20
|
150,30
|
-2,60
|
-1,70%
|
Ethanol (CME)
|
USD/gallon
|
2,16
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|