Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng 1% do số liệu lạm phát của Mỹ cao hơn so với dự kiến, làm lu mờ lo ngại các hạn chế Covid-19 mới tại Trung Quốc sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu nhiên liệu.
Chốt phiên giao dịch ngày 10/11, dầu thô Brent tăng 1,02 USD tương đương 1,1% lên 93,67 USD/thùng và dầu thô Tây Texas WTI tăng 64 US cent tương đương 0,8% lên 84,67 USD/thùng.
Sau 3 phiên giảm liên tiếp, giá dầu thô tăng sau số liệu lạm phát đã khiến các nhà đầu tư kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ kiềm chế việc tăng lãi suất, điều này có thể hỗ trợ nhu cầu dầu.
Chỉ số đồng USD, đo giá trị của đồng tiền này với sáu đồng tiền mạnh khác, giảm 2,12%, xuống 108,204 vào cuối phiên này, sau khi số liệu cho thấy chỉ số giá tiêu dùng tại Mỹ thấp hơn dự kiến. Giá dầu thường diễn biến trái chiều so với đồng USD. Đồng USD suy yếu khiến dầu được định giá bằng đồng bạc xanh rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Các nhà giao dịch đang tiếp tục đánh giá số liệu về dự trữ nhiên liệu hàng tuần của Mỹ. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ ngày 9/11 công bố số liệu cho thấy dự trữ dầu thô thương mại của nước này tăng 3,9 triệu thùng trong tuần kết thúc ngày 4/11.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng hơn 2% lên mức cao nhất hơn 2 tháng do số liệu lạm phát trong tháng 10/2022 của Mỹ giảm, làm dấy lên kỳ vọng Cục Dự liên bang Mỹ sẽ giảm việc tăng lãi suất tích cực.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay tăng 2,7% lên 1.751,61 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 12/2022 tăng 2,3% lên 1.753,7 USD/ounce. Đây là những mức giá cao nhất kể từ ngày 25/8.
Bộ Lao động Mỹ ngày 10/11 công bố báo cáo cho thấy chỉ số giá tiêu dùng tại nước này tháng 10 tăng 0,4% so với tháng trước đó, trong khi các nhà kinh tế dự báo tăng 0,6% và tăng 7,7% so với cùng kỳ năm ngoái.
Chỉ số USD và lợi suất trái phiếu giảm sau khi số liệu lạm phát được công bố, khi số liệu này mang đến hy vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có thể tăng lãi suất ở mức 0,5 điểm phần trăm trong cuộc họp vào tháng 12.
Giá vàng còn nhận được sự hỗ trợ từ báo cáo của Bộ Lao động cho thấy số đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tại Mỹ tăng 7.000, lên 225.000 trong tuần kết thúc ngày 5/11.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 12/2022 tăng 37,5 US cent, hay 1,76%, lên 21,702 USD/ounce; bạch kim giao tháng 1/2023 tăng 57,7 USD, hay 5,79%, lên 1.055 USD/ounce, palladium tăng 5,5% lên 1.966,5 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá kim loại cơ bản đồng loạt tăng sau số liệu của Mỹ cho thấy lạm phát cơ bản có lẽ đã đạt đỉnh, có thể cho phép Cục Dự trữ Liên bang Mỹ ngừng tăng lãi suất sớm hơn dự kiến.
Giá đồng trên sàn London tăng 1,9% lên 8.363 USD/tấn. Tuy nhiên, tính đến nay giá đồng giảm 24% từ mức cao nhất trong tháng 3/2022, do lãi suất tăng và các biện pháp kiểm soát Covid-19 nghiêm ngặt tại Trung Quốc đã kìm hãm hoạt động kinh tế.
Giá nhôm tăng 0,7% lên 2.335 USD/tấn, kẽm tăng 0,9% lên 2.878 USD, niken tăng 6% lên 26.165 USD, chì tăng 0,6% lên 2.089,50 USD và thiếc tăng 1,8% lên 20.170 USD.
Giá quặng sắt tại Đại Liên và Singapore giảm sau 7 phiên tăng liên tiếp do số ca nhiễm Covid-19 tại nước sản xuất thép hàng đầu thế giới – Trung Quốc – tăng, khiến các thương nhân đẩy mạnh bán chốt lời.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn Đại Liên giảm 1,4% xuống 675,5 CNY (93,21 USD)/tấn; quặng sắt kỳ hạn tháng 12/2022 trên sàn Singapore giảm 2,9% xuống 85,9 USD/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 1,4%, thép cuộn cán nóng giảm 1,3% và thép cuộn giảm 1,1%, trong khi thép không gỉ tăng 0,5%.
Trên thị trường nông sản, giá ngũ cốc trên sàn Chicago giảm do các nhà đầu tư bán ra chốt lời, ngay cả khi đồng USD giảm và giá tiêu dùng của Mỹ trong tháng 10/2022 tăng ít hơn so với dự kiến.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì giảm 3 US cent xuống 8,03-1/2 USD/bushel, sau khi giảm xuống mức thấp nhất hơn 2 tháng trong đầu phiên giao dịch; giá ngô giảm 11-1/4 US cent xuống 6,53-1/4 USD/bushel và giá đậu tương giảm 29 US cent xuống 14,23 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn ICE tăng 0,03 US cent tương đương 0,2% lên 19,41 US cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất 3,5 tháng (19,43 US cent/lb) trong phiên ngày 9/11/2022; đường trắng kỳ hạn tháng 12/2022 trên sàn London tăng 11,6 USD tương đương 2,1% lên 555,1 USD/tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn New York tăng 5,35 US cent tương đương 3,3% lên 1,677 USD/lb, sau khi giảm xuống mức thấp mới 15 tháng (1,6045 USD/lb); cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn London tăng 8 USD tương đương 0,4% lên 1.827 USD/tấn, sau khi giảm xuống 1.788 USD/tấn – thấp nhất kể từ tháng 8/2021.
Tại châu Á, giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) chào bán ở mức trừ lùi 60-70 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn London. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá 39.700-41.300 VND (1,6-1,66 USD)/kg, giảm so với 40.400-41.900 VND/kg 1 tuần trước đó.
Giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) của Indonesia chào bán ở mức cộng 40 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2023, tăng so với mức cộng 20 USD/tấn và so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11/2022 cách đây 1 tuần.
Nguồn cung cà phê tại Việt Nam tăng khi những người nông dân bắt đầu thu hoạch, song giao dịch vẫn trầm lắng do nhu cầu yếu, trong khi giá cà phê tại Indonesia tăng do nguồn cung cuối vụ thu hoạch thắt chặt.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm theo xu hướng giá cao su tại thị trường Thượng Hải và thị trường chứng khoán nội địa do lo ngại nhu cầu trong bối cảnh số ca nhiễm Covid-19 tại nước tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc – tăng, gây áp lực thị trường.
Giá cao su kỳ hạn tháng 4/2023 trên sàn Osaka giảm 2 JPY tương đương 0,9% xuống 216,1 JPY (1,48 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn Thượng Hải giảm 50 CNY xuống 12.525 CNY (1.728 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 12/2022 trên sàn Singapore giảm 2,2% xuống 124,9 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
85,52
|
-0,31
|
-0,36%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
92,33
|
-0,32
|
-0,35%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
73.100,00
|
-2.110,00
|
-2,81%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
5,95
|
+0,09
|
+1,47%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
254,86
|
+0,40
|
+0,16%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
363,51
|
-2,12
|
-0,58%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
1.007,00
|
-21,50
|
-2,09%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
83.000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.709,70
|
-4,00
|
-0,23%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
7.995,00
|
+14,00
|
+0,18%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
21,13
|
-0,20
|
-0,92%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
95,40
|
-1,10
|
-1,14%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
989,01
|
-0,84
|
-0,08%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.874,83
|
+6,09
|
+0,33%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
367,00
|
-3,00
|
-0,81%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.104,50
|
-11,00
|
-0,14%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.319,00
|
-53,00
|
-2,23%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.853,50
|
-77,50
|
-2,64%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
19.817,00
|
+158,00
|
+0,80%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
663,50
|
-1,00
|
-0,15%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
807,50
|
+1,00
|
+0,12%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
382,75
|
+2,25
|
+0,59%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
17,93
|
-0,05
|
-0,28%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.448,50
|
-3,50
|
-0,24%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
416,60
|
-1,00
|
-0,24%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
75,49
|
-0,05
|
-0,07%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
892,90
|
+4,40
|
+0,50%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.530,00
|
+6,00
|
+0,24%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
162,35
|
-1,80
|
-1,10%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,38
|
+0,38
|
+2,00%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
214,25
|
+3,05
|
+1,44%
|
Bông
|
US cent/lb
|
84,50
|
-0,23
|
-0,27%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
414,00
|
-18,50
|
-4,28%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
126,60
|
-0,80
|
-0,63%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|