Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng 1 USD/thùng sau khi dữ liệ cho thấy giá tiêu dùng của Mỹ trong tháng 12/2022 bất ngờ giảm và lạc quan về triển vọng nhu cầu của Trung Quốc.
Chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ đã giảm 0,1%, cho thấy lạm phát hiện đang duy trì xu hướng đi xuống. Nước nhập khẩu dầu hàng đầu Trung Quốc đang mở cửa kinh tế trở lại sau khi kết thúc giai đoạn bị “kìm kẹp” do dịch COVID-19, thúc đẩy hy vọng nhu cầu dầu tăng cao hơn.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu Brent tăng 1,36 USD, tương đương 1,7%, lên 84,03 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 98 US cent, tương đương 1,3%, lên 78,39 USD/thùng.
Một yếu tố khác hỗ trợ giá dầu là đồng USD giảm xuống mức thấp của gần 9 tháng so với đồng euro sau khi số liệu lạm phát đã nâng đồn đoán Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ mềm mỏng
hơn trong chính sách lãi suất.
Phiên 11/1, giá hai loại dầu chủ chốt này đã tăng 3% nhờ hy vọng triển vọng kinh tế toàn cầu sẽ không ảm đạm như nhiều người lo ngại.
Craig Erlam, nhà phân tích thị trường cấp cao của công ty dịch vụ tài chính OANDA (Mỹ), nhận định việc hạ cánh nhẹ nhàng hơn đối với Mỹ và các nước khác, cùng với sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc sau làn sóng COVID-19 hiện tại có thể tạo ra một năm tốt hơn nhiều so với lo ngại và kích thích nhu cầu dầu thô tăng thêm.
Thị trường cũng đang chuẩn bị cho việc nguồn cung dầu từ Nga tiếp tục bị cắt giảm liên quan đến các lệnh trừng trừng phạt đối với nước này.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho biết lệnh cấm sắp tới của EU đối với việc nhập khẩu các sản phẩm dầu mỏ từ Nga bằng đường biển vào ngày 5/2 có thể gây gián đoạn hơn so với lệnh cấm nhập khẩu dầu thô từ Nga bằng đường biển của EU được thực hiện vào tháng 12/2022.
Dự trữ dầu thô của Mỹ đã tăng 19 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 6/1 lên 439,6 triệu thùng, trái ngược so với dự báo giảm 2,2 triệu thùng mà các nhà phân tích tham gia cuộc thăm dò ý kiến của hãng tin Reuters (Anh) đưa ra.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng hơn 1% lên gần ngưỡng 1.900 USD/ounce, sau dữ liệu cho thấy dấu hiệu lạm phát của Mỹ giảm, thúc đẩy đặt cược Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tăng lãi suất chậm hơn.
Vàng giao ngay trên sàn LBMA tăng 1,1% lên 1.896,3 USD/ounce, trước đó trong phiên đạt 1.901,4 USD/ounce – cao nhất kể từ tháng 5/2022. Vàng kỳ hạn tháng 2/2023 trên sàn New York tăng 1,1% lên 1.898,8 USD/ounce.
Giá tiêu dùng của Mỹ trong tháng 12/2022 tăng 6,5%, sau khi tăng 7,1% trong tháng trước đó.
Giá tiêu dùng Mỹ đã tăng 6,5% trong tháng 12/2022, phù hợp với dự báo của thị trường, sau khi tăng 7,1% trong tháng 11/2022. Lạm phát cơ bản cũng giống với dự báo của thị trường.
Nhà phân tích Suki Cooper thuộc ngân hàng Standard Chartered (Anh) cho biết lợi suất trái phiếu và đồng USD suy yếu đã làm tăng sức hấp dẫn của vàng trong bối cảnh hai yếu tố chính cản trở vàng trong suốt năm 2022 đang cho thấy những dấu hiệu chững lại. Thêm vào đó, Fed có thể tăng lãi suất thêm 25 điểm cơ bản vào tháng Hai trước khi dừng lại và sau đó cắt giảm lãi suất trong nửa cuối năm 2023.
Đồng USD đã giảm 0,8% xuống mức thấp nhất kể từ đầu tháng 6/2022, khiến vàng trở nên hấp dẫn hơn cho những người nắm giữ đồng tiền khác.
Các thành viên ban lãnh đạo của Fed đã cho biết rằng mặc dù chỉ số giá tiêu dùng đang đi đúng hướng, song họ vẫn ủng hộ quan điểm đưa chỉ số này trở lại 2%. Do đó lãi suất đang tăng chậm lại nhưng sẽ kéo dài và có khả năng cao hơn.
Chủ tịch chi nhánh Fed tại Philadelphia Patrick Harker và Chủ tịch chi nhánh Fed tại St. Louis James Bullard nhận thấy lãi suất sẽ “hạ cánh” ở mức 5% để kiềm chế lạm phát, vốn đã đạt đỉnh 9,1% trong tháng 6/2022.
Các nhà đầu tư đang đặt cược 90% khả năng Fed sẽ tăng lãi suất thêm 25 điểm cơ bản lên phạm vi 4,50% đến 4,75% tại cuộc họp của Fed sắp tới.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 1,8% lên 23,85 USD/ounce. Giá bạch kim tăng 0,4% lên 1.075,25 USD/ounce, trong khi palladium tăng 0,4% lên 1.780,46 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng lên mức cao nhất 7 tháng, sau khi giá tiêu dùng của Mỹ bất ngờ giảm.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,6% lên 9.178 USD/tấn. Trước đó trong phiên giá đồng đạt 9.240 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 16/6/2022, sau số liệu lạm phát của Mỹ thúc đẩy kỳ vọng các ngân hàng trung ương có thể nới lỏng việc tăng lãi suất.
Đồng đã tăng giá 5 phiên liên tiếp, tăng tổng cộng hơn 10%.
Giá đồng kỳ hạn trên sàn Comex của Mỹ tăng 0,4% lên 4,19 USD/lb.
Giá nhôm trên sàn LME tăng 1,4% lên 2.545,50 USD/tấn, chì tăng 0,4% lên 2.200 USD, kẽm tăng 1,2% lên 3.245 USD, thiếc tăng 2,3% lên 27.440 USD và niken tăng 0,6% lên 27.200 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên (Trung Quốc) tăng phiên thứ 3 liên tiếp, với giá quặng sắt tại Singapore tăng lên mức cao đỉnh điểm 6 tháng, được củng cố bởi lạc quan về triển vọng nhu cầu tại nước sản xuất thép hàng đầu – Trung Quốc.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Đại Liên tăng 1,4% lên 855,5 CNY (126,57 USD)/tấn; quặng sắt kỳ hạn tháng 2/2023 trên sàn Singapore tăng 1% lên mức cao nhất kể từ tháng 6/2022 (123,25 USD/tấn).
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây duy trì vững, thép cuộn cán nóng tăng 0,2% và thép không gỉ tăng 0,6%, trong khi thép cuộn giảm 0,2%.
Trên thị trường nông sản, giá ngô và đậu tương Mỹ tăng sau khi Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) bất ngờ cắt giảm ước tính sản lượng vụ thu hoạch năm 2022 đối với cả 2 cây trồng, điều đó có nghĩa là nguồn cung thấp hơn so với dự kiến.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 3/2023 tăng 15 US cent lên 6,71 USD/bushel, tăng mạnh nhất 4 tháng. Giá đậu tương giao cùng kỳ hạn tăng 25-1/2 US cent lên 15,18-1/2 USD/bushel và giá lúa mì kỳ hạn tháng 3/2023 tăng 2-3/4 US cent lên 7,42-3/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3 giảm 0,06 cent, tương đương 0,3%, ở mức 19,59 cent/lb; đường trắng giao cùng kỳ hạn giảm 4,7 USD, tương đương 0,9%, xuống 539,3 USD/tấn.
Các đại lý cho biết tình trạng khan hiếm nguồn cung trong ngắn hạn tiếp tục thúc đẩy giá đường thô, với mức chênh lệch kỳ hạn tháng 3 đến tháng 5 đạt đỉnh 1,46 cent vào thứ Tư, mức cao nhất trong hai tuần.
Nhà sản xuất đường lớn nhất châu Âu Suedzucker công bố thu nhập hàng quý tăng 73,5% do giá đường và nhiên liệu sinh học tăng lấn át chi phí năng lượng và nguyên liệu thô tăng.
Chính phủ Brazil dường như vẫn chưa chắc chắn về việc đánh thuế nhiên liệu khi Bộ trưởng Tài chính Fernando Haddad hôm thứ Năm cho biết việc chấm dứt miễn thuế hiện tại phụ thuộc vào "đánh giá chính trị".
Giá cà phê arabica kỳ hạn trên sàn ICE ổn định vào thứ Năm sau khi chạm mức thấp nhất 1,5 năm trong phiên trước đó do thời tiết vụ mùa thuận lợi ở Brazil và dự trữ trên sàn tăng đã gây áp lực lên giá.
Cà phê arabica tháng 3 tăng 5,5 cent, tương đương 3,8%, ở mức 1,494 USD/lb, sau khi chạm mức 1,4205 USD vào thứ Tư, mức yếu nhất kể từ đầu tháng 5 năm 2021. Cà phê robusta giao cùng kỳ hạn tăng 70 USD, tương đương 3,9%, lên 1.881 USD/tấn.
Mưa ở Brazil đã thúc đẩy triển vọng thu hoạch cà phê arabica tại quốc gia sản xuất hàng đầu thế giới này.
Tại châu Á, giao dịch cà phê ở Việt Nam trầm lắng do người trồng hạn chế bán cà phê khi giá chào kém hấp dẫn và nhu cầu yếu, trong khi giá cà phê tăng tại Indonesia do nguồn cung hạn chế.
Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) chào bán ở mức trừ lùi 80-90 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn London. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá 38.400-40.100 VND (1,64-1,71 USD)/kg, giảm so với 40.100-41.200 VND/kg 1 tuần trước đó.
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong tháng 12/2022 tăng 53,5% so với tháng trước đó lên 197.077 tấn. Tính chung trong năm 2022, Việt Nam xuất khẩu 1,78 triệu tấn cà phê, tăng 13,8% so với năm trước đó. Kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam năm 2022 đạt 4,1 tỉ USD.
Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 130 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2023 và chào bán mức cộng 180-190 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 2/2023.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng theo xu hướng giá dầu thô, bất chấp giá cao su tại thị trường Thượng Hải giảm và đồng JPY tăng mạnh gây áp lực thị trường.
Giá cao su kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn Osaka tăng 1 JPY tương đương 0,4% lên 226 JPY (1,72 USD)/kg, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 20/12/2022 trong đầu phiên giao dịch. Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn Thượng Hải giảm 80 CNY xuống 12.970 CNY (1.919 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 2/2023 trên sàn Singapore giảm 0,7% xuống 135 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
78,35
|
-0,04
|
-0,05%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
83,93
|
-0,10
|
-0,12%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
62.270,00
|
-300,00
|
-0,48%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,69
|
-0,01
|
-0,16%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
246,05
|
-1,48
|
-0,60%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
321,61
|
-0,29
|
-0,09%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
905,50
|
0,00
|
0,00%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
78.500,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.900,30
|
+1,50
|
+0,08%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
7.866,00
|
-84,00
|
-1,06%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
23,97
|
-0,04
|
-0,16%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
97,70
|
-0,50
|
-0,51%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.075,27
|
+4,28
|
+0,40%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.795,77
|
-3,62
|
-0,20%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
418,55
|
-1,10
|
-0,26%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
9.187,00
|
+62,50
|
+0,68%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.548,50
|
+38,50
|
+1,53%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.235,50
|
+28,50
|
+0,89%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
27.409,00
|
+596,00
|
+2,22%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
673,50
|
+2,50
|
+0,37%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
747,50
|
+4,75
|
+0,64%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
361,25
|
+12,00
|
+3,44%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
18,06
|
0,00
|
0,00%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.521,50
|
+3,00
|
+0,20%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
483,00
|
+1,70
|
+0,35%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
63,34
|
+0,09
|
+0,14%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
842,10
|
-0,30
|
-0,04%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.640,00
|
+7,00
|
+0,27%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
149,40
|
+5,50
|
+3,82%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,59
|
-0,06
|
-0,31%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
207,40
|
-0,20
|
-0,10%
|
Bông
|
US cent/lb
|
82,04
|
-2,22
|
-2,63%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
420,20
|
+17,30
|
+4,29%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
138,60
|
+1,00
|
+0,73%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|