Trên thị trường năng lượng, giá dầu chấm dứt chuỗi giảm 3 phiên liên tiếp và đảo chiều tăng tăng thêm 1 USD mỗi thùng do triển vọng thắt chặt nguồn cung ở Canada và các nơi khác, mặc dù lo ngại suy thoái kinh tế tiếp tục gây áp lực lên thị trường.
Dầu thô Brent kết thúc phiên tăng 1,06 USD, tương đương 1,4%, lên 75,23 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) ổn định ở mức 71,11 USD/thùng, tăng 1,07 USD hay 1,5% so với phiên liền trước.
Robert Yawger, nhà phân tích của Mizuho cho biết, cháy rừng hoành hành ở Alberta, Canada, làm ngừng cung cấp một lượng lớn dầu thô và giá tăng do lo ngại tình hình có thể trở nên tồi tệ hơn.
Ít nhất 300.000 thùng tương đương dầu thô sản xuất mỗi ngày đã ngừng hoạt động vào tuần trước ở Alberta. Vào năm 2016, các vụ cháy rừng đã khiến hơn một triệu thùng sản xuất bị gián đoạn ở đó.
Nguồn cung dầu thô toàn cầu cũng có thể thắt chặt trong nửa cuối năm do OPEC+ - Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các đồng minh bao gồm Nga - lên kế hoạch cắt giảm sản lượng bổ sung.
Peter McNally, nhà phân tích của Third Bridge, cho biết: “Việc OPEC+ cắt giảm sản lượng có thể có tác động lớn hơn khi chúng ta bước qua mùa hè, vì những nỗ lực trước đây nhằm cân bằng thị trường đã bị bù đắp bởi sự suy yếu theo mùa và việc giải phóng dự trữ chiến lược”.
Bộ trưởng Năng lượng Jennifer Granholm nói với các nhà lập pháp hôm thứ Năm rằng Mỹ có thể bắt đầu mua lại dầu cho Kho Dự trữ Dầu mỏ Chiến lược sau khi hoàn thành việc bán theo quy định của quốc hội vào tháng 6.
Những lo ngại về sự suy giảm kinh tế toàn cầu đã hạn chế đà tăng của giá dầu.
Tuần trước, giá dầu đã giảm tuần thứ tư liên tiếp, chuỗi giảm hàng tuần dài nhất kể từ tháng 9 năm 2022, do lo ngại về suy thoái kinh tế của Mỹ và rủi ro vỡ nợ lịch sử của chính phủ vào đầu tháng Sáu.
Nhà phân tích Craig Erlam của OANDA cho biết: "Nếu các điều kiện tín dụng nới lỏng trong những tháng tới, làm giảm bớt lo ngại đối với nền kinh tế lớn nhất thế giới, thì giá dầu có thể phục hồi trở lại mà không cần hỗ trợ, nhưng có vẻ hơi sớm vào thời điểm này".
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do đồng USD yếu đi khi các nhà giao dịch đặt cược vào việc Mỹ sẽ cắt giảm lãi suất trước cuối năm bất chấp ý kiến từ các quan chức Cục Dự trữ Liên bang. Các nhà đầu tư cũng đang tập trung vào các cuộc đàm phán về trần nợ của Mỹ.
Vàng giao ngay kết thúc phiên tăng 0,4% lên 2.019,37 USD/ounce, phục hồi từ mức thấp 1 tuần chạm tới vào thứ Sáu. Giá vàng kỳ hạn tháng Sáu tăng 0,1% lên 2.022,70 USD.
Đồng USD giảm từ mức cao nhất 5 tuần, khiến vàng thỏi trở nên rẻ hơn đối với người mua ở nước ngoài.
Daniel Ghali, chiến lược gia hàng hóa của TD Securities, cho biết: “Các nhà đầu tư sẽ tiếp tục triển khai vốn của họ bằng vàng khi triển vọng về chu kỳ cắt giảm lãi suất tiếp tục vững chắc trong 12 tháng tới”.
Hầu hết những người tham gia thị trường vẫn đặt cược vào khả năng Fed sẽ có ít nhất một lần cắt giảm lãi suất trước khi kết thúc năm 2023, theo công cụ FedWatch của CME.
Chủ tịch Fed tại Minneapolis, Neel Kashkari cho biết còn nhiều việc phải làm để kiềm chế lạm phát, trong khi Chủ tịch Fed tại Atlanta, Raphael Bostic, đã hạ thấp khả năng cắt giảm lãi suất trong năm nay.
Trọng tâm chú ý của thị trường trong tuần này sẽ tập trung vào nhiều diễn giả của Fed, bao gồm cả Chủ tịch Jerome Powell.
Trong khi đó, Tổng thống Joe Biden và Chủ tịch Hạ viện Kevin McCarthy của Đảng Cộng hòa đã bước vào một tuần quan trọng để đàm phán về trần nợ nhằm ngăn chặn tình trạng vỡ nợ nghiêm trọng.
Han Tan, trưởng bộ phận phân tích thị trường của Exinity, cho biết: “Mặc dù vàng vẫn được hỗ trợ bởi các yếu tố bao gồm đặt cược cắt giảm lãi suất, nhưng “làn sóng chấp nhận rủi ro lớn bắt nguồn từ một thỏa thuận có thể kéo vàng xuống dưới 2.000 USD”.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,8% lên 24,11 USD/ounce, bạch kim tăng 1,6% lên 1.066,27 USD và palladium tăng 1,4% lên 1.530,34 USD.
Ba báo cáo của ngành dự đoán nhu cầu gia tăng từ các nhà sản xuất ô tô, ngành công nghiệp và nhà đầu tư sẽ đẩy thị trường bạch kim toàn cầu vào tình trạng thâm hụt lớn nhất trong nhiều năm.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng khi ngân hàng trung ương Trung Quốc bơm thanh khoản thể hiện quyết tâm hỗ trợ cho nền kinh tế và giúp kim loại này phục hồi từ mức thấp nhất trong 5 tháng vào tuần trước.
Giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,3% lên 8.279 USD/tấn. Kim loại này đã chạm mức 8.136,50 USD vào thứ Sáu, mức thấp nhất kể từ ngày 30 tháng 11, do lo ngại về nhu cầu từ nước tiêu dùng hàng đầu thế giới - Trung Quốc - và lực bán của các quỹ.
Arthur Parish, cộng sự về kim loại tại SP Angel cho biết: “Chúng tôi đang chứng kiến sự phục hồi nhẹ trong tâm lý đối với kim loại cơ bản sau đợt suy yếu kéo dài vào tuần trước.
"Một số dấu hiệu lạc quan đang phát triển từ Trung Quốc, với việc bơm thanh khoản ngày hôm nay của PBOC có khả năng thúc đẩy sự phục hồi giá trong ngắn hạn. Nhu cầu đồng vẫn thấp và mức tồn kho cao."
Nhà phân tích Carsten Menke của Julius Baer cho biết, cùng với việc bơm thanh khoản của ngân hàng trung ương, cũng có một số hoạt động "săn hàng giá rẻ" sau khi giá kim loại suy yếu vào tuần trước.
Trong khi đó, đồng USD Mỹ giảm từ mức cao nhất trong 5 tuần, khiến các kim loại định giá bằng đồng USD trở nên hấp dẫn hơn đối với người mua nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Trung Quốc dự kiến sẽ báo cáo sản xuất công nghiệp và doanh số bán lẻ hàng tháng vào thứ Ba, cung cấp bằng chứng về việc liệu nhu cầu cuối cùng có phục hồi sau khi dỡ bỏ các hạn chế COVID-19 vào đầu năm nay hay không.
Về phía cung, một mỏ đồng ở Tây Tạng đã ngừng sản xuất sau một vụ tai nạn, hỗ trợ thêm cho thị trường.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm trên sàn LME tăng 1,4% lên 2.263,5 USD/tấn sau khi lượng dự trữ có bảo hành tại các kho đã đăng ký của LME giảm xuống mức thấp nhất trong ba tháng là 373.025 tấn. Giá chì tăng 0,1% lên 2.078 USD và thiếc tăng 0,7% lên 25.000 USD trong khi kẽm giảm 0,5% xuống 2.537,5 USD và niken giảm 2,6% xuống 21.635 USD sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 21 tháng 10 là 21.565 USD.
Citi đã cắt giảm dự báo về niken và kẽm vào tuần trước, nói rằng về cơ bản niken "có vẻ dễ bị tổn thương".
Giá quặng sắt trên thị trường châu Á tăng khi tâm lý nhà đầu tư phấn chấn trước những dấu hiệu cải thiện về nhu cầu ở hạ nguồn và kỳ vọng về một loạt chính sách kích thích sẽ được triển khai tại nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.
Nhu cầu trong lĩnh vực xây dựng đối với 5 sản phẩm thép chính - thép cây, thép cuộn, thép cuộn cán nóng, thép cuộn cán nguội và thép tấm trung bình - trong tuần tính đến ngày 11 tháng 5 đã tăng 9% so với tuần trước lên 10,08 triệu tấn, theo tính toán của Reuters dựa trên dữ liệu từ công ty tư vấn Mysteel.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) - được giao dịch nhiều nhất - đã kết thúc phiên với mức tăng 4,17% lên cao nhất trong ba tuần, là 725 nhân dân tệ (104,89 USD)/tấn, sau khi giảm 1,3% vào tuần trước.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 6 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 3,97% lên 103,4 USD/tấn, mức cao nhất kể từ ngày 8 tháng 5. Tuần trước, hợp đồng này đã giảm 5,7%.
"Sự gia tăng một phần là bởi kỳ vọng của thị trường rằng chính phủ (Trung Quốc) có thể đưa ra một số chính sách kích thích để thúc đẩy nền kinh tế sau dữ liệu kinh tế yếu hơn dự kiến vào tuần trước", Chen Peng, nhà phân tích nguyên liệu thép của Sinosteel Futures, có trụ sở tại Bắc Kinh, cho biết.
Dữ liệu từ Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) hôm thứ Năm cho thấy các khoản vay ngân hàng mới của Trung Quốc đã giảm mạnh hơn nhiều so với dự kiến trong tháng 4, chưa bằng 1/5 so với tháng 3 và chỉ hơn một nửa so với dự đoán của các nhà phân tích.
Theo các nhà phân tích, sản lượng thép thô tăng sau khi nối lại sản xuất tại một số nhà máy cũng hỗ trợ thị trường.
Sản lượng thép thô hàng ngày của Trung Quốc ước đạt 2,91 triệu tấn trong 10 ngày đầu tháng 5, tăng 1,18% so với mức 10 ngày trước đó, dữ liệu từ Hiệp hội Sắt thép Trung Quốc cho thấy.
Giá thép cây trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 2% lên 3.667 nhân dân tệ/tấn, thép cuộn cán nóng tăng 2,33% và thép cuộn tăng 1,13%. Giá thép không gỉ giảm 0,16%.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì Mỹ tăng hơn 3% bởi dự báo chính thức về nguồn cung của Mỹ trong mùa tới thấp hơn dự kiến và những nghi ngờ về việc gia hạn thỏa thuận về hành lang vận chuyển từ Ukraine trước hạn chót trong tuần này. Giá ngô và đậu tương Mỹ cũng tăng, được hỗ trợ bởi xu hướng tăng giá lúa mì và dầu thô, đồng USD yếu hơn và lo ngại về quy mô của các loại cây trồng của Argentina bị ảnh hưởng bởi hạn hán.
Kết thúc phiên, trên Sàn giao dịch Chicago (CBOT), giá lúa mì kỳ hạn tháng 7 tăng 21-1/2 cent lên 6,56-1/2 USD/bushel. Tại Kansas City, lúa mì kỳ hạn tháng 7, đại diện cho loại lúa mì được trồng ở vùng đồng bằng Mỹ bị hạn hán, tăng 21 cent lên 8,98 USD/bushel, sau khi có thời điểm tăng lên 9,12-1/4 USD, mức cao nhất trong gần 6 tháng.
Giá ngô trên sàn CBOT kỳ hạn giao tháng 7 tăng 4-3/4 lên 5,91 USD/bushel, trong khi đậu tương giao cùng kỳ hạn tăng 11-1/2 cent lên 14,01-1/2 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7 giảm 1% xuống 25,96 cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8 giảm 0,7% xuống 710,30 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường đang ở gần khoảng giữa giá của tháng này là 24,88-26,74 cent. Thị trường tiếp tục nhận được sự hỗ trợ từ nguồn cung khan hiếm sau khi sản lượng thu hoạch ở châu Á thấp hơn so với dự kiến và lo ngại rằng hiện tượng thời tiết El Nino có thể đe dọa triển vọng sản lượng mùa tới.
Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos Jr hôm thứ Hai đã phê duyệt kế hoạch nhập khẩu tới 150.000 tấn đường để ổn định giá nội địa do thiếu hụt đường trong nước.
Giá cà phê robusta kỳ hạn giao tháng 7 tăng 0,7% lên 2.448 USD/tấn; cà phê arabica giao tháng 7 tăng 1,9% lên 1,8625 USD/lb.
Thị trường đang đặt hy vọng vào vụ mùa của Brazil khi giá cà phê đắng, thường được sử dụng để sản xuất cà phê hòa tan, đạt mức cao nhất trong 12 năm sau khi xuất khẩu của Việt Nam - nhà sản xuất robusta hàng đầu thế giới - sụt giảm.
Giá cao su kỳ hạn tại Nhật Bản đã kết thúc chuỗi giảm giá kéo dài 4 ngày do thông tin về nguồn cung tại thị trường Thượng Hải và đồng yên giảm giá.
Hợp đồng cao su giao tháng 10 của Sở giao dịch Osaka kết thúc phiên tăng 3,6 yên, tương đương 1,7%, ở mức 212,5 yên (1,57 USD)/kg, mức tăng hàng ngày lớn nhất kể từ ngày 1 tháng Năm.
Hợp đồng cao su giao tháng 9 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE) tăng 335 NDT, tương đương 2,8%, lên 12.305 NDT (1.780,21 USD)/tấn, trong phiên có lúc tăng hơn 3%. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 6 trên nền tảng SICOM của Singapore Exchange được giao dịch lần cuối ở mức 137,7 US cent/kg, tăng 0,7%.
Chỉ số Nikkei trung bình của Nhật Bản đóng cửa tăng 0,81%. Tồn kho cao su tại các kho do SHFE giám sát đã giảm 1% so với một tuần trước đó.
Ngân hàng trung ương Trung Quốc gia hạn các khoản vay chính sách trung hạn đã đáo hạn trong khi vẫn giữ nguyên lãi suất vào thứ Hai như dự kiến, nhưng thị trường kỳ vọng việc nới lỏng tiền tệ có thể là điều tất yếu trong những tháng tới để hỗ trợ phục hồi kinh tế.
Đồng yên Nhật suy yếu 0,20% so với đồng USD xuống 135,99. Đồng yên yếu đi khiến các tài sản bằng đồng yên trở nên hợp lý hơn khi mua bằng các loại tiền tệ khác.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

71,49

+0,38

+0,53%

Dầu Brent

USD/thùng

75,65

+0,42

+0,56%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

63.050,00

+1.770,00

+2,89%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,36

-0,01

-0,59%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

247,95

+0,75

+0,30%

Dầu đốt

US cent/gallon

239,00

+1,20

+0,50%

Dầu khí

USD/tấn

688,50

+9,00

+1,32%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

75.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

2.020,30

-2,40

-0,12%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.792,00

-13,00

-0,15%

Bạc New York

USD/ounce

24,16

-0,14

-0,56%

Bạc TOCOM

JPY/g

104,90

-0,90

-0,85%

Bạch kim

USD/ounce

1.067,92

+0,94

+0,09%

Palađi

USD/ounce

1.535,48

+6,23

+0,41%

Đồng New York

US cent/lb

374,55

-0,55

-0,15%

Đồng LME

USD/tấn

8.272,50

+19,50

+0,24%

Nhôm LME

USD/tấn

2.259,50

+28,00

+1,25%

Kẽm LME

USD/tấn

2.532,00

-17,00

-0,67%

Thiếc LME

USD/tấn

24.994,00

+158,00

+0,64%

Ngô

US cent/bushel

590,25

-2,25

-0,38%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

661,75

+1,00

+0,15%

Lúa mạch

US cent/bushel

342,25

+1,50

+0,44%

Gạo thô

USD/cwt

15,30

+0,01

+0,03%

Đậu tương

US cent/bushel

1.398,50

-2,25

-0,16%

Khô đậu tương

USD/tấn

428,40

-2,50

-0,58%

Dầu đậu tương

US cent/lb

49,63

-0,06

-0,12%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

729,10

-1,70

-0,23%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.980,00

-6,00

-0,20%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

189,40

+6,55

+3,58%

Đường thô

US cent/lb

26,29

+0,07

+0,27%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

250,90

+8,15

+3,36%

Bông

US cent/lb

82,10

-0,27

-0,33%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

344,00

+5,00

+1,47%

Cao su TOCOM

JPY/kg

135,70

-0,20

-0,15%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)