Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm hơn 1 USD do dầu của Nga việc vận chuyển qua đường ống Druzhba sang Hungary đã khởi động lại và số ca nhiễm Covid-19 ở Trung Quốc tiếp tục tăng.
Kết thúc phiên, giá dầu thô Brent giảm 1 USD hay 1,1% xuống 92,86 USD/thùng, dầu WTI giảm 1,33 USD hay 1,5% xuống 85,59 USD/thùng.
Bộ trưởng Ngoại giao Hungary Peter Szijjarto cho biết đường ống dẫn dầu Druzhba từ Nga đã khôi phục sau khi dừng một thời gian ngắn.
Thị trường sau khi giảm mạnh lúc đầu phiên đã hồi phục một phần sau đó sau thông tin dự trữ dầu thô của Mỹ giảm nhiều hơn dự kiến. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ EIA cho biết dự trữ dầu thô của nước này giảm 5,4 triệu thùng trong tuần trước so với dự đoán giảm 440.000 thùng.
Giá dầu cũng được hỗ trợ bởi một báo cáo từ hãng theo dõi tàu chở dầu Petro-Logistics cho biết xuất khẩu từ OPEC đã giảm đáng kể trong tháng này.
Tại Trung Quốc số ca nhiễm Covid-19 đang tăng ảnh hưởng tới tâm lý thị trường sau khi nới lỏng các hạn chế về Covid trong tuần này.
Trong khi đó, Iraq có kế hoạch nâng công suất sản xuất lên khoảng 7 triệu thùng/ngày vào năm 2027, mặc dù bất kỳ sự gia tăng nào sẽ có sự phối hợp của OPEC, nhà tiếp thị dầu quốc doanh SOMO cho biết.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) dự báo tăng trưởng nhu cầu sẽ giảm xuống 1,6 triệu thùng/ngày vào năm 2023 từ 2,1 triệu thùng/ngày trong năm nay.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng duy trì quanh mức cao nhất 3 tháng sau những giờ biến động mạnh theo diễn biến đồng USD.
Kết thúc phiên, giá vàng duy trì gần mức cao nhất 3 tháng bởi USD tăng nhẹ trong khi lợi suất trái phiếu Mỹ giảm, khi thị trường chuyển tập trung từ căng thẳng toàn cầu sang chiến lược lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Theo đó, vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 1.773,13 USD/ounce, trong khi vàng giao sau giảm 0,1% xuống 1.775,8 USD/ounce.
Daniel Ghali, chiến lược gia hàng hóa của TD Securities, cho biết thông tin từ Ba Lan làm dấy lên căng thẳng địa chính trị có tác động hạn chế đến vàng, cho biết thêm rằng sẽ có thời gian thị tường tạm trầm lắng cho đến khi có thông tin mới về lạm phát của Mỹ.
Đồng đô la tăng 0,1%, khiến vàng thỏi đắt hơn đối với người mua ở nước ngoài, tuy nhiên kim lợi suất trái phiếu Mỹ kỳ hạn 10 năm ở gần mức thấp nhất kể từ ngày 5 tháng 10.
Doanh số bán lẻ của Mỹ tháng 10 tăng hơn dự kiến , trong khi dữ liệu hôm thứ Ba cho thấy giá sản xuất tại nước này tăng ít hơn dự kiến, làm dấy lên hy vọng Fed có thể giảm tốc độ tăng lãi suất.
Giá bạc phiên này giảm 0,6% xuống 21,41 USD/ounce, bạch kim giảm 1,2% xuống 1.002,47 USD và palladium giảm 1,1% xuống 2.075,55 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do số liệu kinh tế của Trung Quốc yếu cộng với những dấu hiệu nhu cầu chậm lại và nguồn cung dồi dào.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch LME giảm 1,2% xuống 8272,5 USD/tấn. Giá đã tăng lên mức cao nhất 5 tháng, là 8.600 USD/tấn, trong phiên liền trước, tính từ đầu tháng 11 tăng 15%, do hy vọng Trung Quốc sẽ từ bỏ chính sách zero Covid và lãi suất của Mỹ sẽ tăng chậm lại, làm tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế và nhu cầu kim loại.
Nhưng giá nhà tại Trung Quốc tháng 10 giảm với tốc độ nhanh nhất trong hơn 7 năm.
Trung Quốc là nước tiêu thụ kim loại lớn nhất thế giới và số ca nhiễm Covid-19 đang tăng tại đó, làm tăng lo sợ về việc phong tỏa rộng lớn hơn gây ảnh hưởng tới hoạt động kinh tế.
Trong khi đó, đồng CNY của Trung Quốc yếu hơn so với USD khiến các kim loại được định giá bằng USD đắt hơn cho khách hàng Trung Quốc.
Nguồn cung trên sàn LME bất ngờ dồi dào khiến giá đồng giao ngay chuyển từ cao hơn hơn 100 USD so với hợp đồng giao sau ba tháng thành thấp hơn hơn 30 USD.
Giá niken giảm 9,1% xuống 27.500 USD, đảo ngược một phần mức tăng mạnh trong 2 tuần qua; giá nhôm giảm 1,1% xuống 2,409 USD/tấn, kẽm giảm 1,7% xuống 3,059 USD, chì giảm 2,3% xuống 2,168 USD và thiếc giảm 0,4% xuống 23.305 USD.
Giá quặng sắt tiếp tục tăng phiên thứ 4 liên tiếp, với quặng sắt Đại Liên đạt mức cao nhất 5 tuần, do các thương nhân hy vọng rằng các hành động chính sách gần đây tại Trung Quốc sẽ thúc đẩy nhu cầu nguyên liệu thô này.
Sản lượng thép và nguyên liệu sản xuất thép khác tại Trung Quốc cũng tăng do tâm lý tổng thể vẫn lạc quan bất chấp số liệu cho thấy giá nhà mới tháng 10 giảm với tốc độ nhanh nhất kể từ năm 2015.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2023 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa tăng 2,2% lên 734 CNY (103,74 USD)/tấn. Trong phiên giá đã đạt 741 CNY, cao nhất kể từ ngày 11/10. Tại Singapre, giá quặng sắt giao tháng 12 tăng khoảng 5,2% lên 99,6 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 16/9. Tại Thượng Hải thép thanh tăng 2,1%, thép cuộn cán nóng tăng 1,2% và thép không gỉ tăng 2,4%.
Giá quặng sắt Đại Liên đã tăng gần 20% trong tháng này sau khi giảm trong tháng 10, với tốc độ tăng nhanh chóng sau thông báo nới lỏng những hạn chế với Covid1-9 của Trung Quốc bất chấp số ca nhiễm gia tăng.
Tin tức về các gói giải cứu cho các nhà phát triển bất động sản của Trung Quốc đã bổ sung tâm lý lạc quan, ngay cả khi các chỉ số kinh tế tháng 10 cho thấy nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới đang tăng trưởng chậm lại bởi những hạn chế về Covid-19 và sự suy thoái của lĩnh vực bất động sản.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương Mỹ giảm khoảng 2% bởi việc chốt lời dầu đậu tương và triển vọng mưa có lợi ở Brazil. Giá lúa mì và ngô cũng giảm áp lực bởi lạc quan về việc gia hạn thỏa thuận xuất khẩu ở Biển Đen và do giảm bớt lo lắng về cuộc chiến ở Ukraine có thể leo thang.
Đậu tương giao tháng 1/2023 trên sàn giao dịch Chicago đóng cửa giảm 28 US cent xuống 14,29-1/4 USD/bushel; lúa mì CBOT kỳ hạn tháng 12 giảm 10-3/4 US cent xuống 8,17-1/2 USD/bushel; ngô kỳ hạn tháng 12 giảm 1-1/2 US cent xuống 6,65-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2023 đóng cửa giảm 0,02 US cent hay 0,1% xuống 20,27 US cent/lb sau khi tăng lên mức cao nhất 7 tháng tại 20,44 US cent; đường trắng kỳ hạn tháng 3/2023 giảm 6,7 USD hay 1,2% xuống 544,6 USD/tấn.
Các đại lý cho biết việc mua để đóng các giao dịch bán khống liên quan tới các nhà máy đường của Ấn Độ đàm phán lại và phá vỡ hợp đồng đã khiến giá tăng ban đầu.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2023 đóng cửa giảm 1,1 US cent hay 0,7% xuống 1,584 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2023 giảm 10 USD hay 0,6% xuống 1.792 USD/tấn.
Thị trường bị áp lực một phần bởi lượng lớn cà phê arabica chảy vào kho ICE. Tồn trữ cà phê được ICE chứng nhận ở mức 468.291 bao tính tới 15/11, cao hơn nhiều mức thấp nhất 23 năm tại 382.695 bao thiết lập trong ngày 3/11. Có 598.716 bao đang chờ phân loại.
Rabobank cho biết họ dự kiến thị trường cà phê toàn cầu chuyển từ thiếu hụt nhẹ trong niên vụ 2022/23 thành dư thừa trong niên vụ tới bởi mưa thuận lợi ở Brazil và sản lượng tăng đáp ứng với giá cao kể từ năm 2020, trong khi tăng trưởng nhu cầu dự kiến yếu.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản giảm, kết thúc chuỗi tăng 3 phiên liên tiếp, do số ca nhiễm tăng nhanh tại các thành phố lớn của Trung Quốc làm dấy lên lo sợ về nhu cầu chậm lại, mặc dù tồn kho giảm tại Thượng Hải đã hạn chế đà giảm tại Nhật Bản.
Hợp đồng cao su giao tháng 4/2023 tại sàn giao dịch Osaka đóng cửa giảm 3,2 JPY hay 1,5% xuống 216,9 JPY (1,6 USD)/kg. Tại Thượng Hải giá cao su kỳ hạn tháng 1/2023 tăng 25 CNY lên 12.685 CNY (1.792 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 12 trên sàn Singapore giao dịch ở mức 130,3 US cent/kg, giảm 0,5% so với phiên trước.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

84,68

-0,91

-1,06%

Dầu Brent

USD/thùng

92,05

-0,81

-0,87%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

70.350,00

-1.350,00

-1,88%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

6,27

+0,07

+1,10%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

249,57

-1,23

-0,49%

Dầu đốt

US cent/gallon

359,53

-1,83

-0,51%

Dầu khí

USD/tấn

983,00

-8,75

-0,88%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

82.000,00

-1.000,00

-1,20%

Vàng New York

USD/ounce

1.773,30

-2,50

-0,14%

Vàng TOCOM

JPY/g

7.931,00

-20,00

-0,25%

Bạc New York

USD/ounce

21,39

-0,14

-0,65%

Bạc TOCOM

JPY/g

93,80

-0,80

-0,85%

Bạch kim

USD/ounce

1.006,30

-2,94

-0,29%

Palađi

USD/ounce

2.063,58

-12,82

-0,62%

Đồng New York

US cent/lb

374,50

-2,85

-0,76%

Đồng LME

USD/tấn

8.293,50

-83,00

-0,99%

Nhôm LME

USD/tấn

2.412,00

-23,00

-0,94%

Kẽm LME

USD/tấn

3.053,50

-58,00

-1,86%

Thiếc LME

USD/tấn

23.635,00

+249,00

+1,06%

Ngô

US cent/bushel

665,75

-1,75

-0,26%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

833,25

-4,00

-0,48%

Lúa mạch

US cent/bushel

397,00

+1,50

+0,38%

Gạo thô

USD/cwt

17,70

-0,04

-0,23%

Đậu tương

US cent/bushel

1.427,00

-2,25

-0,16%

Khô đậu tương

USD/tấn

404,80

+0,80

+0,20%

Dầu đậu tương

US cent/lb

71,69

-0,41

-0,57%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

872,60

+0,70

+0,08%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.502,00

+4,00

+0,16%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

158,40

-1,10

-0,69%

Đường thô

US cent/lb

20,27

-0,02

-0,10%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

202,65

+4,65

+2,35%

Bông

US cent/lb

86,76

-0,21

-0,24%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

430,00

-0,60

-0,14%

Cao su TOCOM

JPY/kg

129,40

-1,10

-0,84%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)