Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng hơn 5 USD/thùng do USD giảm và kỳ vọng Ngân hàng trung ương Mỹ sẽ không tăng lãi suất thêm một điểm phần trăm trong cuộc họp tiếp theo để chống lạm phát.
Kết thúc phiên này, giá dầu thô Brent giao tháng 9 tăng 5,11 USD, tương đương 5,1%, lên 106,27 USD/thùng, sau khi tăng 2,1% trong phiên liền trước (thứ Sáu, 15/7). Giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI), kỳ hạn giao tháng 8, cũng tăng 5,01 USD, tương đương 5,1%, lên 102,60 USD, sau khi tăng 1,9% trong phiên liền trước.
Giá dầu thô WTI giao sau tăng hơn 5% lên trên 102 USD/thùng vào thứ Hai, đảo ngược mức giảm lúc đầu phiên khi các nhà đầu tư lo ngại nguồn cung liên tục bị thắt chặt và nhu cầu đối với tài sản rủi ro tăng lên. Bộ trưởng Dầu mỏ Saudi Arabia khẳng định rằng các quyết định chính sách sẽ dựa trên động lực thị trường và theo cuộc họp OPEC + vào ngày 3 tháng 8, bất chấp việc Tổng thống Mỹ Biden cam kết tăng nguồn cung dầu.
Trong một diễn biến khác, Libya cho biết tất cả các mỏ dầu và cảng đang khởi động lại và sản lượng điện sẽ tăng sau nhiều tháng ngừng hoạt động. Về phía cầu, doanh số bán xăng và dầu diesel tại nước tiêu thụ năng lượng lớn thứ ba thế giới - Ấn Độ - đã giảm trong nửa đầu tháng 7 do mưa trái mùa.
Giá dầu Mỹ đã giảm gần 7% vào tuần trước và đã giảm kể từ giữa tháng 6 khi những lo ngại về suy thoái ngày càng gia tăng do các đợt tăng lãi suất mạnh mẽ trên toàn thế giới làm suy yếu toàn bộ thị trường hàng hóa. Các nhà giao dịch cũng vẫn cảnh giác về việc phong tỏa chống Covid-19 rộng rãi hơn ở Trung Quốc và các đề xuất của phương Tây về giới hạn giá đối với dầu của Nga.
Hôm thứ Sáu, hai quan chức của Fed đã nói rằng ngân hàng trung ương Mỹ có thể sẽ chỉ tăng lãi suất thêm 75 điểm cơ bản tại cuộc họp ngày 26-27 tháng 7. Trước đó, các thông tin đều cho biết Fed đang xem xét quyết định tăng lãi suất thêm 100 điểm cơ bản, khiến giá dầu tuần qua sụt giảm mạnh.
Đồng đô la Mỹ đã giảm khỏi mức cao nhất trong nhiều năm vào thứ Hai (18/7), làm cho giá hàng hóa tính bằng USD hạ nhiệt đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng hồi phục lên trên ngưỡng 1.700 USD do đồng USD yếu đi trong bối cảnh thị trường giảm tỷ lệ đặt cược vào việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ tăng lãi suất 100 điểm cơ bản trong tuần tới.
Giá vàng giao ngay kết thúc phiên tăng 0,2% lên 1.709,87 USD/ounce, sau khi có thời điểm tăng 1%; giá vàng giao tháng 8/2022 tăng 0,4% lên 1.710,2 USD/ounce.
Tuần trước, vàng miếng đã chạm mức thấp nhất trong gần một năm do đồng đô la tăng mạnh lên khiến vàng trở nên đắt hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Edward Moya, nhà phân tích cấp cao của OANDA, cho biết: “Chúng ta đang chứng kiến sự phục hồi khá tốt của vàng khi đồng đô la yếu đi”. Theo ông, các nhà đầu tư vàng hiện đang có chút lạc quan vì thị trường đang tranh luận về việc Fed sẽ nâng lãi suất thêm 50 hay 75 điểm phần trăm.
Chỉ số đồng USD đã giảm 0,7% trong phiên vừa qua, lùi khỏi mức cao nhất gần 20 năm.
Dữ liệu hôm thứ Sáu (15/7) cho thấy người tiêu dùng Mỹ đã hạ mức đánh giá về lạm phát trong tháng 7, một diễn biến mà chắc chắn các quan chức Fed rất mong đợi, bởi lo ngại về lạm phát cao có thể làm cho nhiệm vụ kiềm chế giá cả của họ trở nên phức tạp.
Lãi suất tăng khiến vàng không tính lãi trở nên kém hấp dẫn hơn. Ngân hàng Trung ương châu Âu trong cuộc họp vào cuối tuần này dự kiến sẽ tăng lãi suất thêm 25 điểm phần trăm. Trong khi đó, Ngân hàng Xây dựng China Corp cho biết họ sẽ đình chỉ một số loại giao dịch vàng và bạc cho khách hàng, bắt đầu từ ngày 15 tháng 8.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,8% lên 18,83 USD/ounce, bạch kim tăng 1,7% lên 864,69 USD và palladium tăng 1,7% lên 1.860,16 USD.
Thị trường bạch kim được dự báo sẽ thặng dư trong năm nay, một dấu hiệu cho thấy các yếu tố cơ bản của thị trường tương đối yếu trong bối cảnh Trung Quốc phong tỏa chống COVID-19 và chi tiêu của người tiêu dùng ở Trung Quốc giảm, Heraeus Precious Metals cho biết.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng hồi phục sau khi có tin Chính phủ Trung Quốc sẽ bổ sung hỗ trợ cho nền kinh tế và đồng USD yếu đi khiến giá kim loại trở nên hấp dẫn hơn đối với những người mua bằng các tiền tệ khác.
Cụ thể, giá đồng giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) đã tăng 3,3% lên 7.427 USD/tấn vào lúc đóng cửa phiên giao dịch, phục hồi đáng kể sau khi chạm mức thấp nhất kể từ tháng 11/2020 trong phiên trước đó, là 6.955 USD. Giá đồng kỳ hạn tương lai trên sàn Comex (Mỹ) cũng tăng 3,4% lên 3,35 USD/lb.
Giá đồng trên sàn LME đã giảm khoảng 32% kể từ khi chạm đỉnh kỷ lục 10.845 USD/tấn vào đầu tháng 3, do lo ngại về sự suy thoái ở Trung Quốc và việc tăng lãi suất mạnh mẽ có thể dẫn tới suy thoái toàn cầu.
Ole Hansen, người đứng đầu chiến lược hàng hóa tại Ngân hàng Saxo ở Copenhagen, cho biết kim loại công nghiệp có nguy cơ suy yếu hơn nữa. Ông nói: “Đây vẫn là một đợt phục hồi của thị trường “gấu” và còn quá sớm để dự đoán liệu điều này có chuyển thành sự củng cố và phục hồi hay không”.
Tại Trung Quốc, các cơ quan quản lý đã tăng cường nỗ lực khuyến khích người cho vay mở rộng khoản vay cho các dự án bất động sản đủ điều kiện trong bối cảnh lĩnh vực bất động sản rơi vào khó khăn chồng chất bởi gia tăng tình trạng các ngân hàng từ chối các khoản thế chấp đối với những căn nhà chưa hoàn thiện.
Ngân hàng trung ương Trung Quốc sẽ đẩy mạnh thực hiện "chính sách tiền tệ thận trọng" để hỗ trợ nền kinh tế”, Thống đốc ngân hàng cho biết hôm thứ Bảy (16/7),
Đồng cũng được thúc đẩy bởi tin tức rằng mỏ đồng và coban Tenke Fungurume của CMOC đã đình chỉ tất cả các hoạt động xuất khẩu, tuân thủ các yêu cầu của một quản trị viên do tòa án chỉ định.
Cũng hỗ trợ giá kim loại là chỉ số đô la Mỹ yếu đi làm cho hàng hóa được định giá bằng đồng tiền của Mỹ rẻ hơn đối với người mua sử dụng các loại tiền tệ khác.
Giá kẽm phiên này tăng 2,7% lên 2,994 USD/tấn, cũng được thúc đẩy bởi bức tranh nguồn cung thắt chặt. Dữ liệu của LME hôm thứ Hai cho thấy tồn kho kẽm đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 4 năm 2020, giảm 64% trong bảy tháng qua.
Về các kim loại khác, giá nhôm trên sàn LME tăng 3,8% lên 2,414 USD/tấn, mức tăng lớn nhất trong một ngày kể từ ngày 23/3, ncikel tăng 6,5% lên 20,650 USD, chì tăng 2,6% lên 1,995 USD, nhưng thiếc giảm 0,5% xuống 24,730 USD .
Giá quặng sắt trên thị trường châu Á tăng trở lại trên 100 USD sau khi Trung Quốc – nhà sản xuất thép hàng đầu thế giới – nỗ lực tìm các giải pháp để giảm bớt lo ngại về khó khăn tài chính đang đối mặt với lĩnh vực bất động sản. Tuy nhiên, dịch Covid-19 dai dẳng đã hạn chế giá tăng mạnh.
Trên Sàn giao dịch Hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc, hợp đồng quặng sắt giao tháng 9 kết thúc giao dịch ban ngày ở mức tăng 2,2% lên 679 nhân dân tệ (100,63 USD)/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất trong 7 tháng, là 638,50 nhân dân tệ.
Hợp đồng quặng sắt giao ngay tháng 8 trên Sàn giao dịch Singapore kết thúc phiên 18/7 tăng 3,7% lên 100,05 USD/tấn, phục hồi từ mức thấp nhất trong vòng 8 thán,g là 96 USD, chạm tới hôm thứ Sáu (15/7),
Giá thép tại Trung Quốc cũng phục hồi sau những đợt bán tháo gần đây, với thép cây xây dựng trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 2,1% và thép cuộn cán nóng tăng 3,1%, thép không gỉ tăng 0,2%.
Các nhà quản lý Trung Quốc hôm Chủ nhật kêu gọi các ngân hàng mở rộng các khoản vay cho các dự án bất động sản đủ điều kiện và đáp ứng nhu cầu tài chính của các nhà phát triển khi hợp lý, trong những nỗ lực mới nhất của họ nhằm giảm bớt lo ngại gây ra bởi một cuộc tẩy chay thanh toán thế chấp ngày càng tăng đối với những ngôi nhà chưa hoàn thiện.
Trên thị trường nông sản, giá Giá ngô, đậu tương và lúa mì Mỹ đồng loạt tăng giá trong phiên vừa qua do lo ngại thời tiết nắng nóng có thể gây căng thẳng ở các thị trường Trung Tây và châu Âu, trong bối cảnh giá dầu thô tăng và đồng USD yếu đi.
Kết thúc phiên, giá ngô trên sàn Chicago, kỳ hạn tháng 12, tăng 7 cent lên 6,10-3/4 USD/bushel, sau khi có lúc đạt 6,23-3/4 USD, mức cao nhất kể từ ngày 12/7. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 11 tăng 38 US cent lên 13,80-1/4 USD/bushel, và lúa mì giao tháng 9 tăng 36 US cent lên 8,12-3/4 USD.
Vấn đề thời tiết là mối quan tâm hàng đầu lúc này khi cây ngô trên các cánh đồng của Mỹ tiếp tục thụ phấn, một giai đoạn quan trọng để xác định năng suất. Mưa cuối tuần đã thúc đẩy mùa màng ở phía đông Trung Tây, nhưng tình trạng khô hạn vẫn tiếp diễn ở các khu vực phía tây do các dự báo cho rằng nhiệt độ tăng.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10 tăng 0,16 cent, tương đương 0,8%, lên 19,41 cent/lb; đường trắng giao tháng 10 phiên vừa qua giảm 5,50 USD, tương đương 1,0% xuống 554,10 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường thô đang nhận được sự hỗ trợ từ giá đường trắng tăng gần đây, vốn có xu hướng phản ứng với bất kỳ sự gia tăng nào liên quan đến nhu cầu vật chất.
Các bang của Brazil hôm 18/7 đã cắt giảm thuế đối với ethanol sau khi Chính phủ ra luật mới. Theo đó, chính quyền các bang Sao Paulo và Minas Gerais, hai bang đông dân nhất của Brazil, đã cắt giảm thuế địa phương đối với ethanol, một động thái theo sau của bang Parana, nhằm làm cho nhiên liệu sinh học trở nên cạnh tranh hơn tại máy các trạm xăng, sau động thái cắt giảm thuế xăng tương tự.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tương lai trên sàn ICE tăng gần 8% trong xu hướng hồi phục của thị trường sau khi giá giảm xuống mức thấp nhất 9 tháng vào tuần trước trong bối cảnh người tiêu dùng tăng mua và các quỹ đầu tư quay trở lại thị trường.
Đồng USD giảm cũng góp phần đẩy giá cà phê tăng mạnh.
Kết thúc phiên, cà phê arabica kỳ hạn giao tháng 9 tăng 15,4 cent, tương đương 7,7% lên 2,152 USD/lb, phục hồi từ mức thấp nhất trong 9 tháng là 1,9460 USD chạm tới vào thứ Sáu tuần trước; cà phê robusta cũng giao tháng 9 tăng 69 USD, tương đương 3,6% lên 1.992 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường đã trở nên bán quá mức về mặt kỹ thuật sau đợt giảm mạnh gần đây, trong khi mức tồn trữ thấp là một yếu tố hỗ trợ giá hồi phục.
Giá hàng hóa thế giới

 

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

102,78

+0,18

+0,18%

Dầu Brent

USD/thùng

106,29

+0,02

+0,02%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

75.200,00

+4.120,00

+5,80%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

7,46

-0,02

-0,27%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

327,73

+1,30

+0,40%

Dầu đốt

US cent/gallon

362,18

-3,37

-0,92%

Dầu khí

USD/tấn

1.077,50

-37,75

-3,38%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

81.460,00

-1.970,00

-2,36%

Vàng New York

USD/ounce

1.704,80

-5,40

-0,32%

Vàng TOCOM

JPY/g

7.559,00

-28,00

-0,37%

Bạc New York

USD/ounce

18,56

-0,28

-1,51%

Bạc TOCOM

JPY/g

78,50

-1,60

-2,00%

Bạch kim

USD/ounce

861,20

-6,25

-0,72%

Palađi

USD/ounce

1.871,58

+12,25

+0,66%

Đồng New York

US cent/lb

329,05

-5,55

-1,66%

Đồng LME

USD/tấn

7.426,50

+236,00

+3,28%

Nhôm LME

USD/tấn

2.426,50

+83,50

+3,56%

Kẽm LME

USD/tấn

3.006,00

+91,00

+3,12%

Thiếc LME

USD/tấn

24.719,00

-131,00

-0,53%

Ngô

US cent/bushel

604,50

-6,25

-1,02%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

809,75

-3,00

-0,37%

Lúa mạch

US cent/bushel

463,00

+19,25

+4,34%

Gạo thô

USD/cwt

17,02

-0,04

-0,26%

Đậu tương

US cent/bushel

1.374,50

-5,75

-0,42%

Khô đậu tương

USD/tấn

394,90

-1,00

-0,25%

Dầu đậu tương

US cent/lb

60,57

-0,31

-0,51%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

849,80

-6,00

-0,70%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.329,00

+8,00

+0,34%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

215,20

+15,40

+7,71%

Đường thô

US cent/lb

19,41

+0,16

+0,83%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

151,90

+1,25

+0,83%

Bông

US cent/lb

90,60

-2,40

-2,58%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

640,80

-8,00

-1,23%

Cao su TOCOM

JPY/kg

153,10

+1,30

+0,86%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)