Trên thị trường nông sản, giá dầu giảm lúc đầu phiên, nhưng hồi phục vào cuối phiên sau khi Saudi Arabia bác bỏ thông tin cho rằng nước này đang thảo luận về việc tăng nguồn cung dầu với OPEC và các đồng minh.
Kết thúc phiên, giá dầu thô Brent kỳ hạn tháng 1/2023 có giá 87,45 USD, giảm 17 cent so với đóng cửa phiên thứ Sáu (18/11); dầu Tây Texas Mỹ (WTI) kỳ hạn tháng 12 ở mức 79,73 USD/thùng, giảm 35 cent trước khi hợp đồng hết hạn vào cuối ngày thứ Hai (21/11); dầu WTI kỳ hạn tháng 1/2023 giảm 7 cent xuống còn 80,04 USD/thùng.
Vào đầu phiên, giá cả hai mặt hàng đã giảm hơn 5 USD/thùng và xuống mức thấp nhất trong 10 tháng, sau khi Thời báo Phố Wall đưa tin Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và những quốc gia sản xuất dầu liên minh, còn được gọi là OPEC+, sẽ xem xét mức tăng sản lượng lên tới 500.000 thùng/ngày tại cuộc họp của OPEC+ vào ngày 4/12.
Sau đó, đà giảm của giá dầu đã được hạn chế sau khi hãng thông tấn nhà nước SPA đưa tin Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia, Hoàng tử Abdulaziz bin Salman khẳng định vương quốc này vẫn kiên trì với chính sách cắt giảm sản lượng và không thảo luận về khả năng tăng sản lượng dầu với các nhà sản xuất dầu khác.
Chuyên gia John Kilduff, tại công ty quản lý tài sản Again Capital LLC có trụ sở ở New York (Mỹ), cho rằng tuyên bố từ Saudi Arabia đã đảo ngược toàn bộ tình hình chỉ trong vài phút.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh của họ, được gọi là OPEC+, gần đây đã cắt giảm các mục tiêu sản xuất và bộ trưởng năng lượng của nhà lãnh đạo trên thực tế là Ả Saudi Arabia trong tháng này cho biết nhóm này sẽ vẫn thận trọng.
Bob Yawger, giám đốc năng lượng tương lai thuộc Mizuho ở New York, cho biết việc xả thêm dầu trong bối cảnh nhu cầu nhiên liệu yếu của Trung Quốc và sức mạnh của đồng đô la Mỹ sẽ đẩy thị trường vào tình trạng hoãn mua bù, khuyến khích nhiều dầu hơn được đưa vào kho và đẩy giá xuống thấp hơn nữa. "Đó là chơi với lửa."
Trong khi đó, kỳ vọng lãi suất tiếp tục tăng đã hỗ trợ đồng bạc xanh, khiến các hàng hóa định giá bằng USD như dầu thô trở nên đắt đỏ hơn đối với các nhà đầu tư.
Đồng USD đã tăng 0,9% so với đồng yen. Nhà phân tích Tina Teng của công ty tài chính CMC Markets (Vương quốc Anh) cho rằng ngoài triển vọng nhu cầu suy yếu do các biện pháp kiềm soát dịch COVID-19 của Trung Quốc, đà tăng của đồng USD cũng là một yếu tố làm giảm giá dầu.
Nhà phân tích Tina Teng của CMC Markets cho biết: “Ngoài triển vọng nhu cầu suy yếu do các biện pháp kiềm chế COVID của Trung Quốc, sự phục hồi của đồng đô la Mỹ hôm nay cũng là một yếu tố làm giảm giá dầu”.
“Tâm lý rủi ro trở nên mong manh khi tất cả các dữ liệu kinh tế của các nước lớn gần đây đều chỉ ra một kịch bản suy thoái, đặc biệt là ở Anh và khu vực đồng euro,” bà nói.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất trong hơn một tuần vào thứ Hai, giảm hơn 1% do đồng đô la kéo dài đà tăng, trong khi sự chú ý của thị trường chuyển sang biên bản cuộc họp tháng 11 của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ do tuần lễ này được rút ngắn vì lễ Phục sinh.
Giá vàng giao ngay giảm 0,7% vào cuối phiên, xuống 1.738,40 USD/ounce, sau khi trước đó chạm mức thấp nhất kể từ ngày 10 tháng 11 là 1.731,40 USD. Giá vàng Mỹ kỳ hạn tháng 12 giảm 0,8% xuống còn 1.739,6 USD.
Chris Gaffney, chủ tịch Ngân hàng TIAA cho biết: “Nhìn chung, môi trường vĩ mô nói chung vẫn là lãi suất tăng, điều này là tiêu cực đối với kim loại quý khi các ngân hàng trung ương tiếp tục tìm cách tăng lãi suất”.
Đồng đô la Mỹ tăng 0,9%, gây sức ép lên kim loại màu vàng do khiến nó trở nên đắt đỏ đối với người mua ở nước ngoài.
Biên bản cuộc họp tháng 11 của Fed sẽ được công bố vào thứ Tư, với hầu hết các nhà giao dịch đặt cược vào mức tăng lãi suất thêm 50 điểm cơ bản trong cuộc họp tháng 12, và có nhìn thấy 24,2% khả năng tăng 75 điểm cơ bản sau những bình luận gần đây của các quan chức Fed.
Lãi suất tăng làm giảm sức hấp dẫn của vàng, vốn là một hàng rào chống lại lạm phát theo truyền thống, vì chúng làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng thỏi vốn không sinh lãi.
Về các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,3% xuống 20,85 USD/ounce; bạch kim tăng 0,8% lên 985,13 USD; palladium giảm 4% xuống còn 1.860,26 USD, trước đó giảm xuống mức thấp nhất trong tuần là 1.823 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm xuống mức thấp nhất trong hơn hai tuần, chịu áp lực bởi các biện pháp hạn chế mới chống COVID ở nước tiêu dùng đồng hàng đầu thế giới - Trung Quốc, đồng đô la mạnh lên và hàng tồn kho tăng tại các kho đã đăng ký với Sàn giao dịch kim loại Luân Đôn.
Hợp đồng đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch LME đã giảm 2,2% xuống 7.901 USD/tấn, trong phiên có lúc giá chạm mức 7.858 USD, thấp nhất kể từ ngày 4 tháng 11.
Quận đông dân nhất Bắc Kinh ngày 21/11 kêu gọi cư dân ở nhà, trong khi thủ đô nước này báo cáo số ca nhiễm COVID-19 gia tăng. Chính quyền địa phương ở thành phố Quảng Châu, miền nam Trung Quốc, đã phong tỏa khu vực này trong 5 ngày.
Nhà phân tích Carsten Menke của Julius Baer cho biết: “Hy vọng về việc mở cửa trở lại nhanh chóng ở Trung Quốc đã bị thất vọng.
Dự trữ đồng trong các kho đã đăng ký của LME ở mức 91.250 tấn, tăng hơn 15% kể từ ngày 10 tháng 11, trong khi các chứng quyền bị hủy - hoặc kim loại được đánh dấu để giao - ở mức 21% trong tổng số, giảm từ 66% vào cuối tháng 10.
Giá nhôm phiên này giảm 2,1% xuống 2.378 USD/tấn, kẽm giảm 4% xuống 2.910 USD, chì giảm 2,5% xuống 2.101 USD và niken giảm 1,2% xuống 25.075 USD. Giá thiếc giảm 6,6% xuống 21.170 USD/tấn.
Giá quặng giảm do đợt bùng phát COVID-19 mới tại nhà sản xuất thép hàng đầu thế giới - Trung Quốc làm giảm triển vọng nhu cầu, trong khi dự đoán nguồn cung tăng sau quyết định của Ấn Độ về việc dỡ bỏ thuế xuất khẩu đối với quặng sắt phẩm cấp thấp cũng góp phần gây áp lực lên giá.
Trên Sàn giao dịch Singapore, quặng sắt giao tháng 12 giảm 2,9% xuống 95,7 USD/tấn. Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc - được giao dịch nhiều nhất - có lúc giảm 2,6% nhưng hồi phục nhẹ vào cuối phiên và kết thúc ở mức 745,5 nhân dân tệ (104,10 USD)/tấn.
Hợp đồng thép cây được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải phiên này cũng giảm 1,2%, thép cuộn cán nóng giảm 1,1%, thép dây giảm 0,7%, trong khi thép không gỉ tăng 1,5%.
Các hợp đồng trên cả hai sàn đã ghi nhận mức tăng hàng tuần trong ba tuần liên tiếp kể từ cuối tháng 10, khi các động thái mới nhất của Trung Quốc nhằm vực dậy nền kinh tế đang sa sút đã làm sáng tỏ triển vọng nhu cầu.
Tuy nhiên, những lo ngại về hoạt động kinh tế trong ngắn hạn lại nổi lên khi Trung Quốc đang phải chống chọi với nhiều đợt bùng phát COVID-19. Vào Chủ nhật, nước này đã báo cáo 26.824 ca nhiễm mới tại địa phương, gần đạt mức cao nhất của tháng Tư. Họ cũng ghi nhận hai trường hợp tử vong ở Bắc Kinh.
Trên thị trường nông sản, giá ngũ cốc Mỹ kỳ hạn tương lai giao dịch trên sàn Chicago giảm vào thứ Hai do đồng đô la mạnh lên và lo ngại về xuất khẩu của Mỹ.
Đồng đô la tăng giá so với hầu hết các loại tiền tệ chính, khiến hàng hóa của Mỹ trở nên kém hấp dẫn hơn đối với các nhà nhập khẩu, trong khi các quy định thắt chặt chống COVID-19 ở Trung Quốc làm dấy lên lo ngại về triển vọng kinh tế toàn cầu. Bắc Kinh cảnh báo họ đang phải đối mặt với làn sóng dịch nghiêm trọng nhất kể từ đầu đại dịch.
Hợp đồng ngô hoạt động mạnh nhất trên sàn CBOT giảm 6,5 cent, đóng cửa ở mức 6,63-1/2 USD/bushel, trong khi lúa mì giảm 3-3/4 cent xuống 8,18-1/4 USD/bushel. Trong khi đó, giá đậu tương đóng cửa tăng 8,5 cent lên 14,36-3/4 USD/bushel. Dầu thô và giá cổ phiếu cũng suy yếu.
Công ty nghiên cứu thị trường Hightower cho biết trong một báo cáo: “Sự gia tăng các ca nhiễm COVID-19 ở Trung Quốc được coi là yếu tố làm giảm nhu cầu tiêu thụ thực phẩm và năng lượng”.
Các nhà phân tích thị trường cho biết, đồng đô la mạnh lên khiến lúa mì Mỹ thiếu khả năng cạnh tranh khi xuất khẩu của Nga tăng lên, trong khi việc gia hạn thêm 120 ngày đối với hành lang vận chuyển ngũ cốc từ Ukraine được thiết lập để duy trì dòng chảy từ quốc gia này.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3 giảm 0,19 cent, tương đương 0,9%, xuống 19,86 cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất trong 7 tháng là 20,48 cent vào tuần trước; đường trắng tháng 3 giảm 7,40 USD, tương đương 1,4%, ở mức 535,90 USD/tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn trên sàn ICE tăng vào thứ Hai sau báo cáo cho biết vụ mùa của nhà sản xuất hàng đầu thế giới – Brazil có thể gây thất vọng trong năm tới giúp giá phục hồi phần nào mức giảm 7,7% của tuần trước.
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 3 tăng 5,3 cent, tương đương 3,4%, lên 1,604 USD/lb. Hợp đồng này đã chạm mức thấp nhất trong 16 tháng vào tuần trước ở mức 1,5405 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 1 vững ở mức 1.812 USD/tấn.
Các đại lý trích dẫn báo cáo rằng Cooxupe, hợp tác xã cà phê lớn nhất của Brazil, dự báo vụ mùa năm sau sẽ kém như năm nay, trái với dự báo của thị trường về một vụ mùa bội thu.
Tuy nhiên, những lo ngại về nhu cầu vẫn tồn tại đối với cà phê khi tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại, trong khi vẫn có áp lực từ các kho dự trữ được ICE chứng nhận, đang tăng mạnh từ mức thấp nhất trong 23 năm gần đây.
Giá cao su kỳ hạn trên thị trường Nhật Bản giảm vào thứ Hai, theo sau xu hướng sụt giảm trên thị trường Thượng Hải, do các biện pháp kiểm soát mới chống COVID-19 ở Trung Quốc sau khi số ca nhiễm tăng nhanh đã làm tiêu tan hy vọng nới lỏng các hạn chế vào tuần trước và làm giảm sút tâm lý về nhu cầu.
Hợp đồng cao su giao tháng 4 trên Sở giao dịch Osaka kết thúc phiên giảm 5,3 yên, tương đương 2,4%, xuống 211,9 yên ($1,51)/kg. Hợp đồng cao su giao tháng 1 trên sàn Thượng Hải giảm 420 NDT xuống còn 12.355 NDT (1.725 USD)/tấn. Hợp đồng cao su kỳ hạn giao tháng 12 trên nền tảng SICOM của Sở giao dịch Singapore được giao dịch lần cuối ở mức 124,4 US cent/kg, giảm 3,3%.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

79,73

-0,35

-0,44%

Dầu Brent

USD/thùng

87,45

-0,17

-0,19%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

69.690,00

+990,00

+1,44%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

6,69

-0,09

-1,27%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

244,95

+1,24

+0,51%

Dầu đốt

US cent/gallon

348,82

-0,91

-0,26%

Dầu khí

USD/tấn

916,75

-29,25

-3,09%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

80.500,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.754,80

+0,20

+0,01%

Vàng TOCOM

JPY/g

7.921,00

+41,00

+0,52%

Bạc New York

USD/ounce

21,08

+0,01

+0,06%

Bạc TOCOM

JPY/g

93,00

+0,70

+0,76%

Bạch kim

USD/ounce

985,47

+0,54

+0,05%

Palađi

USD/ounce

1.874,11

+5,85

+0,31%

Đồng New York

US cent/lb

358,60

+1,00

+0,28%

Đồng LME

USD/tấn

8.076,00

-34,00

-0,42%

Nhôm LME

USD/tấn

2.430,00

+39,00

+1,63%

Kẽm LME

USD/tấn

3.031,00

+44,00

+1,47%

Thiếc LME

USD/tấn

22.664,00

+80,00

+0,35%

Ngô

US cent/bushel

663,50

-6,50

-0,97%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

818,25

-3,75

-0,46%

Lúa mạch

US cent/bushel

395,00

+4,00

+1,02%

Gạo thô

USD/cwt

17,81

+0,02

+0,08%

Đậu tương

US cent/bushel

1.436,75

+8,50

+0,60%

Khô đậu tương

USD/tấn

408,00

+1,90

+0,47%

Dầu đậu tương

US cent/lb

70,73

+0,12

+0,17%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

837,60

-9,40

-1,11%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.453,00

-3,00

-0,12%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

160,40

+5,30

+3,42%

Đường thô

US cent/lb

19,86

-0,19

-0,95%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

205,75

+4,60

+2,29%

Bông

US cent/lb

79,78

-4,00

-4,77%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

435,00

+8,50

+1,99%

Cao su TOCOM

JPY/kg

123,60

-6,30

-4,85%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)