Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm hơn 3%, tiếp tục chuỗi ngày giao dịch đầy biến động, khi Nhóm Bảy quốc gia (G7) coi giới hạn giá dầu Nga cao hơn mức giá thị trường hiện tại và do tồn kho xăng ở Mỹ nhiều hơn mong đợi của các nhà phân tích.
Giá dầu Brent giao tháng 1 giảm 2,95 USD, tương đương 3,3% xuống 85,41 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ của Mỹ giảm 3,01 USD, tương đương 3,7% xuống 77,94 USD/thùng. Lúc đầu phiên, cả hai hợp đồng đều tăng hơn 1 đô la/thùng.
Thông tin cũng ảnh hưởng lớn tới thị trường trong phiên này là báo cáo từ Cơ quan Thông tin Năng lượng (EIA) cho hay lượng xăng dự trữ của Mỹ đã tăng 3,1 triệu thùng trong tuần trước. Con số này vượt xa mức tăng 383.000 thùng mà các nhà phân tích đã dự báo trong cuộc thăm dò của hãng tin Reuters.
Ông Phil Flynn, nhà phân tích tại công ty môi giới đầu tư Price Futures, cho biết việc tăng lượng xăng dự trữ là một cú sốc. Vì điều này có thể cho thấy nhu cầu nhiên liệu suy yếu hoặc xăng sẽ tăng giá mạnh trước kỳ nghỉ lễ sắp tới.
Số liệu của EIA cũng cho thấy dự trữ dầu thô của Mỹ giảm 3,7 triệu thùng, cao hơn hẳn so với kỳ vọng giảm 1,1 triệu thùng của các nhà phân tích.
Yếu tố chính tác động tới giá "vàng đen" trong phiên này là các báo cáo rằng mức trần giá G7 muốn áp lên dầu của Nga có thể cao hơn mức loại dầu này đang giao dịch.
Một quan chức Liên minh châu Âu (EU) cùng ngày 23/11 cho hay các quốc gia G7 đang xem xét mức giá trần khoảng 65-70 USD/thùng đối với dầu vận chuyển bằng đường biển của Nga.
Trong khi đó, số liệu của công ty theo dõi thị trường Refinitiv cho thấy dầu thô Urals của Nga giao đến khu vực Tây Bắc Âu đang giao dịch quanh mức 62 - 63 USD/thùng. Giá dầu giao đến khu vực Địa Trung Hải cao hơn là khoảng 67 - 68 USD/thùng.
Theo giới quan sát, với các ước tính rằng chi phí sản xuất dầu tại Nga chỉ vào khoảng 20 USD/thùng, mức trần nêu trên vẫn sẽ mang lại lợi nhuận cho nước này và giúp ngăn chặn tình trạng thiếu hụt nguồn cung trên thị trường toàn cầu.
Một quan chức cấp cao của Bộ Tài chính Mỹ cho biết hôm thứ Ba rằng giới hạn giá có thể sẽ được điều chỉnh một vài lần trong năm.
Bên cạnh đó, giá dầu cũng chịu sức ép từ lo ngại về nhu cầu của Trung Quốc - nhà nhập khẩu dầu thô hàng đầu thế giới. Quốc gia này đang phải vật lộn với tình trạng số ca nhiễm COVID-19 gia tăng mạnh, khiến trung tâm tài chính Thượng Hải phải thắt chặt các quy định phòng dịch vào cuối ngày thứ Ba.
Tăng thêm áp lực là việc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ suy yếu vào năm tới.
Nhà phân tích Tamas Varga tại công ty môi giới đầu tư PVM Oil Associates cho biết nhìn theo hướng tích cực, OECD không dự đoán về một cuộc suy thoái toàn cầu. Điều này có thể đã giúp giá “vàng đen” hạn chế đà giảm phần nào trong phiên 23/11.
Giá đã tìm thấy một số hỗ trợ sau khi biên bản cuộc họp tháng 11 của Fed cho thấy hầu hết các nhà hoạch định chính sách đồng ý rằng sẽ tìm thời điểm thích hợp để sớm giảm tốc độ tăng lãi suất.
Giá khí đốt tự nhiên của Mỹ tăng khoảng 8% lên mức cao nhất trong hai tháng vào thứ Tư trước kỳ nghỉ Lễ Tạ ơn do dự báo thời tiết lạnh hơn nhiều so với dự kiến trước đó và nhu cầu sưởi ấm cao hơn trong hai tuần tới.
Giá khí đốt kỳ hạn giao tháng 12 tăng 52,9 cent, tương đương 7,8%, lên 7,308 USD/triệu đơn vị nhiệt Anh (mmBtu), mức đóng cửa cao nhất kể từ ngày 21/9. Trong phiên, có lúc hợp đồng này tăng hơn 11%.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tiếp tục tăng do biên bản cuộc hop của Fed cho thấy tốc độ tăng lãi suất sẽ chậm lại.
Giá vàng giao ngay kết thúc phiên tăng 0,5% lên 1.749,04 USD/ounce, trong khi hợp đồng vàng kỳ hạn tháng 12 tăng 0,3% ở mức 1.745,6.
Ông Tai Wong, một nhà giao dịch cao cấp tại công ty môi giới đầu tư Heraeus Precious Metals, cho biết giá vàng đã phục hồi sau khi biên bản cuộc họp gần nhất của Fed không chứa đựng những bất ngờ mang tính “diều hâu”.
Biên bản gần như đã xác nhận rằng tốc độ tăng lãi suất sẽ giảm xuống còn 50 điểm cơ bản vào tháng 12 tới. Việc tốc độ tăng lãi suất chậm hơn sẽ cho phép Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) đánh giá tiến độ hướng tới các mục tiêu về toàn dụng lao động và ổn định giá cả.
Chuyên gia Tai Wong nhận định các thị trường tài chính tin rằng Fed đang thắt chặt chính sách quá mức. Vì vậy, nhà đầu tư đều diễn giải một cách ôn hòa nội dung biên bản cuộc họp và không có bất ngờ thực sự nào xuất hiện – điều không khó hiểu khi cân nhắc tới bình luận của các quan chức Fed trong hai tuần qua.
Việc Fed giảm tốc độ tăng lãi suất sẽ tốt hơn cho phép Ủy ban Thị trường Mở Liên bang đánh giá tiến độ đạt được các mục tiêu về việc làm tối đa và ổn định giá cả, theo biên bản cuộc họp ngày 1-2/11 của Fed.
Ông David Meger, người đứng đầu mảng giao dịch kim loại tại công ty môi giới đầu tư High Ridge Futures đánh giá việc các thị trường đã định giá phần lớn các lần tăng lãi suất đó đồng nghĩa sẽ không còn “bóng đen” liên quan tới lãi suất bao trùm thị trường vàng trong thời gian tới.
Fed đã tăng lãi suất chính sách thêm 375 điểm cơ bản trong năm nay từ mức gần bằng 0 lên mức 3,75% -4,00% để chống lại lạm phát cao, là chu kỳ tăng lãi suất nhanh nhất kể từ những năm 1980. Lãi suất tăng làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng vốn không có lãi suất.
Một yếu tố khác cũng hỗ trợ vàng trong phiên này là việc đồng USD đã giảm gần 1%, giúp vàng trở nên rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Ngoài ra, kinh tế Mỹ cũng đón nhận số liệu không mấy lạc quan khi hoạt động kinh doanh tháng 11 giảm tháng thứ năm liên tiếp, với số lượng đơn đặt hàng mới giảm xuống mức thấp nhất trong hai năm rưỡi do lãi suất cao hơn khiến nhu cầu thu hẹp.
Về các kim loại khác, giá bạc phiên này tăng 1,9% lên 21,47 USD/ounce, còn giá bạch kim tăng 0,3% lên 993,88 USD/ounce, palladium tăng 1,1% lên 1.880,18 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do số ca nhiễm COVID-19 tăng ở Trung Quốc làm tiêu tan hy vọng rằng nhu cầu ở quốc gia tiêu thụ kim loại lớn nhất thế giới sẽ sớm được cải thiện.
Đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch Kim loại London (LME) giảm 0,2% xuống 7.995 USD/tấn. Giá kim loại được sử dụng trong lĩnh vực điện và xây dựng này đã tăng từ khoảng 7.500 USD vào đầu tháng 11 lên 8.600 USD vào ngày 14/11 do hy vọng rằng Trung Quốc sẽ nới lỏng chính sách 0 COVID gây thiệt hại về mặt kinh tế và lãi suất của Mỹ sẽ ít tăng hơn mức đáng sợ.
Nhưng đồng kể từ đó giá đã mất đà tăng do số ca nhiễm COVID ở Trung Quốc gia tăng và đồng nhân dân tệ suy yếu so với đồng đô la, khiến kim loại trở nên đắt hơn đối với người mua Trung Quốc.
Các thành phố lớn của Trung Quốc, bao gồm Bắc Kinh, Thượng Hải và Quảng Châu đã thắt chặt các biện pháp ngăn chặn, có khả năng kìm hãm hoạt động kinh tế.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm phiên này giảm 1,7% xuống 2.389 USD/tấn, kẽm giảm 0,5% xuống 2.900 USD, niken giảm 0,6% xuống 25.875 USD và thiếc giảm 0,9% xuống 21.990 USD. Chì là kim loại duy nhất tăng giá, tăng 0,1% lên 2.095 USD/tấn.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên (Trung Quốc) tiếp tục giảm phiên thứ ba liên tiếp do lo ngại về số ca nhiễm COVID-19 gia tăng tại nhà sản xuất thép hàng đầu thế giới - Trung Quốc – gây áp lực nặng nề lên tâm lý thị trường.
Hợp đồng quặng sắt được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch Hàng hóa Đại Liên (giao tháng 1) giảm 0,4% xuống 732,5 nhân dân tệ (102,44 USD)/tấn.
Trên Sàn giao dịch Singapore, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 12 tăng 1,7% lên 95,05 USD/tấn.
Giá thép cây trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng 0,1%, thép cuộn tăng 0,4%, trong khi thép không gỉ giảm 0,2% và thép cuộn cán nóng nhích thấp hơn 0,1%.
Bắc Kinh đã đóng cửa các công viên và bảo tàng vào thứ Ba và Thượng Hải thắt chặt các quy tắc đối với người dân vào thành phố khi chính quyền Trung Quốc đối mặt với sự gia tăng đột biến số ca nhiễm COVID-19 đã làm gia tăng mối lo ngại về nền kinh tế và làm lu mờ hy vọng mở cửa trở lại nhanh chóng.
Trên thị trường nông sản, giá ngũ cốc Mỹ tăng trong phiên vừa qua khi các nhà giao dịch tìm cách tăng vị thế mua của họ trước khi thị trường đóng cửa cho kỳ nghỉ Lễ Tạ ơn và trước một ngày giao dịch ngắn ngủi vào thứ Sáu tới. Trong đó, giá ngô tăng còn do thị trường chú ý đến dự báo thời tiết khô hạn có thể gây ra thêm căng thẳng cho cây trồng của Argentina.
Giá lúa mì trên Sàn Thương mại Chicago (CBOT) đã tăng thêm 3 US cent lên 8,13-1/2 USD/bushel, đậu tương tăng 6-1/4 cent lên 14,36 USD/bushel, và ngô ăng 6-1/2 cent lên 6,63-1/4 USD/bushel.
Các nhà xuất khẩu Mỹ đã bán 110.000 tấn đậu tương cho Trung Quốc để giao hàng trong năm tiếp thị 2022/23, Bộ Nông nghiệp Mỹ cho biết hôm thứ Tư.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3 giảm 0,19%, tương đương 1,0%, xuống 19,55 cent/lb, một phần do giá năng lượng giảm; đường trắng giao tháng 3 giảm 2,30 USD, tương đương 0,4% xuống 535,00 USD/tấn.
Nhà phân tích Tobin Gorey của Ngân hàng Commonwealth Bank of Australia lưu ý rằng triển vọng ép mía ở Thái Lan đã bị hạ thấp. "Điều kiện ẩm ướt, và lũ lụt sớm hơn đã ảnh hưởng đến việc ép mía. Vì vậy, việc nghiền ép hiện sẽ bắt đầu muộn hơn dự kiến vào đầu tháng 12. Và, chúng tôi nghi ngờ, khả năng thu hồi đường cũng sẽ giảm", ông nói trong một ghi chú.
Ấn Độ có khả năng sẽ cho phép xuất khẩu thêm 2-4 triệu tấn đường trong niên vụ 2022/23, một động thái sẽ khiến tổng xuất khẩu ở mức 8-10 triệu tấn và thấp hơn mức của năm ngoái.
Giá dầu cọ Malaysia tăng phiên thứ ba liên tiếp khi các loại dầu liên quan đồng loạt tăng giá và kỳ vọng vào dữ liệu xuất khẩu của công ty vào ngày 1-25 tháng 11.
Hợp đồng dầu cọ giao tháng 2 trên Sàn giao dịch phái sinh Bursa Malaysia tăng 2,50% đóng cửa phiên giao dịch buổi chiều ở mức 4.104 ringgit (897,64 USD)/tấn.
Một thương nhân có trụ sở tại Kuala Lumpur cho biết: “Thị trường của chúng tôi đã đi lên, chịu ảnh hưởng của sức mạnh bên ngoài cũng như dự đoán xuất khẩu tốt trong tháng tính đến ngày 25”.
Xuất khẩu các sản phẩm dầu cọ của Malaysia trong giai đoạn 1-20 tháng 11 đã tăng từ 2,9% đến 9,6% so với một tháng trước đó, dữ liệu từ các nhà khảo sát hàng hóa vào đầu tuần này cho thấy.
Hợp đồng dầu cọ giao dịch nhiều nhất trên sàn Đại Liên tăng 0,55%, trong khi hợp đồng dầu đậu tương trên sàn giao dịch Chicago tăng 0,27%.
Giá cà phê arabica kỳ hạn trên sàn ICE giảm hôm thứ Tư khi lượng hàng trong các kho dự trữ trao đổi tiếp tục tăng, bất chấp những điều chỉnh giảm dự đoán về với vụ mùa tiếp theo của Brazil.
Giá cà phê arabica giao tháng 3 giảm 1,95 cent, tương đương 1,2%, xuống 1,6275 USD/lb mặc dù thị trường vẫn cao hơn mức thấp nhất trong 16 tháng của tuần trước là 1,5405 USD. Giá cà phê robusta giao tháng 1 giảm 20 USD, tương đương 1,1% xuống 1.814 USD/tấn.
Tồn kho cà phê có chứng chỉ của sàn ICE tăng lên 550.749 bao vào ngày 23 tháng 11, cao hơn mức thấp nhất trong 23 năm là 382.695 chạm tới vào ngày 3 tháng 11. Có 521.382 bao đang chờ phân loại để được thêm vào kho.
Thị trường cao su Osaka của Nhật Bản đóng cửa nghỉ lễ.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
77,76
|
-0,18
|
-0,23%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
85,15
|
-0,26
|
-0,30%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
67.010,00
|
-2.830,00
|
-4,05%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
7,25
|
-0,06
|
-0,79%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
246,60
|
-0,84
|
-0,34%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
334,49
|
-1,44
|
-0,43%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
915,50
|
-10,75
|
-1,16%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
80.500,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.769,60
|
+9,20
|
+0,52%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
7.827,00
|
-99,00
|
-1,25%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
21,82
|
+0,29
|
+1,34%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
94,10
|
0,00
|
0,00%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.002,12
|
+1,45
|
+0,14%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.896,00
|
+10,73
|
+0,57%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
365,20
|
+3,35
|
+0,93%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.005,00
|
-8,00
|
-0,10%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.397,00
|
-32,00
|
-1,32%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.906,50
|
-8,00
|
-0,27%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
22.028,00
|
-166,00
|
-0,75%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
666,25
|
+7,00
|
+1,06%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
813,50
|
+3,00
|
+0,37%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
389,00
|
-7,00
|
-1,77%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
18,01
|
+0,07
|
+0,36%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.436,00
|
+6,25
|
+0,44%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
407,40
|
+2,40
|
+0,59%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
72,20
|
+0,76
|
+1,06%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
820,10
|
-3,00
|
-0,36%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.444,00
|
-11,00
|
-0,45%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
162,75
|
-1,95
|
-1,18%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,55
|
-0,19
|
-0,96%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
206,40
|
-0,95
|
-0,46%
|
Bông
|
US cent/lb
|
82,90
|
+0,48
|
+0,58%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
432,00
|
+2,30
|
+0,54%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
127,70
|
+0,40
|
+0,31%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|