Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm sau một phiên giao dịch nhiều biến động bởi dữ liệu cho thấy nhu cầu từ Trung Quốc trong tháng 9 vẫn yếu trong khi đồng USD mạnh lên, giữa bối cảnh số liệu hoạt động kinh doanh của Mỹ cho thấy sự yếu đi, làm giảm dự đoán về việc lãi suất tăng mạnh hơn nữa và hạn chế đà giảm của dầu.
Kết thúc phiên 24/10, giá dầu Brent kỳ hạn tháng 12 giảm 0,3%, hay 24 US cent, xuống 93,26 USD/thùng, sau khi tăng 2% trong tuần trước; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 0,6%, hay 47 US cent, xuống 84,58 USD/thùng. Cả hai loại dầu trong phiên có lúc đều giảm 2 USD.
Theo số liệu từ cơ quan hải quan Trung Quốc, mặc dù tăng so với trong tháng 8, song nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc trong tháng 9 là 9,79 triệu thùng/ngày, thấp hơn 2% so với một năm trước, do các nhà máy lọc dầu độc lập hạn chế sản lượng bởi lợi nhận thấp và nhu cầu yếu.
Các nhà phân tích của ngân hàng ANZ cho rằng xu hướng nhập khẩu dầu của Trung Quốc tăng gần đây đã chững lại trong tháng Chín, khi chính sách "Zero COVID" ảnh hưởng đến nhu cầu.
Bên cạnh đó, đà tăng liên tục của đồng USD cũng gây sức ép đối với giá dầu. Sự mạnh lên của đồng bạc xanh khiến dầu trở nên đắt hơn đối với những nhà đầu tư nắm giữ đồng tiền khác.
Chuyên gia Jim Ritterbusch của công ty tư vấn dầu khí Ritterbusch and Associates nhận định triển vọng đồng USD tăng mạnh hơn sẽ ảnh hưởng đến mức giá của dầu WTI và mặt hàng này có thể giảm xuống 79,50 USD/thùng vào cuối tuần.
Mặc dù giảm, song giá dầu được hỗ trợ một phần sau khi số liệu cho thấy hoạt động kinh doanh của Mỹ giảm tháng thứ 4 liên tiếp trong tháng 10, các công ty sản xuất và dịch vụ trong khảo sát hàng tháng đều báo cáo nhu cầu của khách hàng yếu hơn.
Tuần trước, giá dầu Brent đã tăng bất chấp việc Tổng thống Mỹ Joe Biden thông báo bán 15 triệu thùng dầu từ Kho Dự trữ Dầu mỏ Chiến lược. Đây là một phần trong chương trình giải phóng kỷ lục 180 triệu thùng dầu bắt đầu vào tháng Năm.
Tuy nhiên, ngân hàng Goldman Sachs cho rằng quyết định giải phóng dầu từ kho dự trữ sẽ không có ảnh hưởng đáng kể đến giá cả trên thị trường.
Các nhà phân tích của ING cho biết sự không chắc chắn về chính sách Zero COVID của Trung Quốc và cuộc khủng hoảng bất động sản đang làm suy yếu tính hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ tăng trưởng của Trung Quốc, mặc dù tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội quý III vượt kỳ vọng.
Sức mạnh liên tục của đồng đô la Mỹ, vốn đã tăng trở lại trong một khoảng thời gian của phiên giao dịch, cũng đã cản trở giá dầu. Đồng USD mạnh lên khiến giá dầu trở nên đắt hơn đối với những khách hàng nắm giữ các tiền tệ khác.
Jim Ritterbusch của Ritterbusch and Associates cho biết: "Việc đồng USD tăng thêm nữa sẽ ảnh hưởng đến giá dầu WTI, với khả năng giá sẽ giảm xuống 79,50 vào cuối tuần".
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do USD mạnh lên và lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng, trong khi dự đoán về một đợt tăng lãi suất mạnh của Cục dự trữ Liên bang khiến các nhà đầu tư đứng ngoài thị trường và tạm ngừng các giao dịch.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay giảm 0,5% xuống 1.648,60 USD/ounce; vàng giao sau giảm 0,1% xuống 1.654,1 USD/ounce.
USD tăng 0,2% so với các đồng tiền đối thủ, khiến vàng đắt hơn cho người mua bằng ngoại tệ khác, trong khi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm gần chạm mức cao kỷ lục đã từng đạt tới gần đây.
Thị trường đã xác định rằng Fed sẽ tăng lãi suất 75 điểm cơ bản trong tháng 11, nhưng hiện đang giảm đặt cược về đợt tăng tương tự trong tháng 12 sau các báo cáo cho biết các quan chức Fed có thể sẽ tranh luận về quy mô của các đợt tăng lãi suất trong tương lai.
Edward Moya, nhà phân tích cấp cao của OANDA, cho biết: "Thị trường vẫn đang ở chế độ chờ và xem ... Fed sẽ có động thái gì sau những dấu hiệu về sự suy yếu mà họ đang thấy trong nền kinh tế ... mà trong ngắn hạn sẽ hỗ trợ phần nào cho vàng".
Kết quả một cuộc khảo sát cho thấy hoạt động kinh doanh của Mỹ trong tháng 10 đã chậm lại tháng thứ 4 liên tiếp, là bằng chứng mới nhất về một nền kinh tế đang suy yếu khi đối mặt với lạm phát cao và lãi suất tăng.
Goldman Sachs cho biết: “Vàng có thể có khả năng tăng lên 2.250 USD/ounce trong trường hợp kinh Mỹ suy thoái sâu, và có thể giảm xuống 1.500 USD/ounce trong một kịch bản Fed tiếp tục tăng mạnh lãi suất.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 12/2022 tăng 12,3 US cent, hay 0,65%, lên 19,189 USD/ounce; bạch kim giao tháng 1/2023 giảm 7,3 USD, hay 0,78%, xuống 926,6 USD/ounce; trong khi palladium giảm 2,5% xuống 1.968,58 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do các nhà đầu tư lo lắng về tốc độ tăng trưởng kinh tế tại Trung Quốc và đồng CNY giảm xuống mức thấp nhất so với USD kể từ năm 2008, khiến các hàng hóa định giá bằng USD đắt hơn cho khách hàng Trung Quốc.
Số liệu cho thấy kinh tế Trung Quốc phục hồi nhanh hơn trong quý 3 nhưng triển vọng bị che phủ bởi các biện pháp kiểm soát Covid-19, sự sụt giảm trong lĩnh vực bất động sản và tăng trưởng suy yếu ở những nơi khác trên thế giới.
Thị trường chứng khoán Trung Quốc sụt giảm mặc dù chứng khoán ở những nơi khác tốt hơn.
Đồng giao sau ba tháng trên sàn giao dịch kim loại London LME giảm 0,6% xuống 7.579,5 USD/tấn. Giá đồng đã giảm 30% kể từ mức đỉnh hồi tháng 3, do kinh tế toàn cầu chậm lại, làm giảm tiêu thụ kim loại.
Tăng trưởng nhu cầu đồng của Trung Quốc có thể không bao giờ đạt lại mức cũ, nhưng nguồn cung toàn cầu sẽ không bắt kịp nhu cầu trong những năm 2020, điều này hỗ trợ giá.
Các nhà phân tích tại JPMorgan cho biết họ vẫn dự kiến giá giảm trong ngắn hạn.
Nhập khẩu đồng của Trung Quốc trong tháng 9 tăng 25,6% so với tháng 9/2021, nhu cầu tăng từ các dự án cơ sở hạ tầng của chính quyền địa phương.
Tuy nhiên, dự trữ tại Trung Quốc cũng tăng, tồn kho tại sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tăng lên 89.566 tấn từ 30.459 tấn vào cuối tháng trước, mặc dù lượng hàng trong kho ngoại quan vẫn rất thấp.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm giảm 0,8% ở mức 2.189,50 USD tấn, kẽm tăng 1,4% lên 2,968 USD, niken tăng 1,6% ở mức 22,290 USD, chì tăng 0,2% lên 1,898 USD và thiếc tăng 0,1% ở mức 18.505 USD.
Giá quặng sắt tại Đại Liên tăng sau khi số liệu cho thấy nền kinh tế Trung Quốc phục hồi với tốc độ nhanh hơn dự kiến trong quý 3, nhưng những lo ngại về hạn chế Covid-19 và lĩnh vực bất động sản suy yếu đã hạn chế đà tăng.
Tại sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2023 đóng cửa tăng 1 CNY lên 679,5 CNY/tấn. Thép thanh tại Thượng Hải giảm 0,4%, thép cuộn cán nóng giảm 0,1% và thép không gỉ giảm 1,1%.
Trong quý 3 kinh tế Trung Quốc tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn dự báo 3,4% trong thăm dò của Reuters và cao hơn so với mức tăng trưởng 0,4% trong quý 2.
Các nhà đầu tư cũng hầu như không quan tâm tới mức tăng sản lượng thép thô hàng tháng của Trung Quốc do dự đoán hoạt động xây dựng gia tăng trong tháng 9 và tháng 10.
Trên thị trường nông sản, giá ngô và đậu tương của Mỹ giảm do lo ngại nhu cầu yếu khi sản lượng vụ thu hoạch mới tràn ngập thị trường.
Lúa mì giảm do nhu cầu yếu và do mưa tại vành đai lúa mì của Mỹ nâng triển vọng cho vụ đông được trồng gần đây.
Thời tiết rất thuận lợi trên khu vực Midwest cho phép nông dân tiếp tục thu hoạch ngô và đậu tương, nguồn cung cấp đã được bổ sung khi mực nước trên sông Mississippi thấp làm chậm việc vận chuyển tới các cơ sở xuất khẩu Gulf Coast.
Đậu tương kỳ hạn tháng 11 trên sàn giao dịch Chicago đóng cửa giảm 23-1/2 US cent xuống 13,72 USD/bushel, trong khi ngô kỳ hạn tháng 12 giảm 2-3/4 US cent xuống 6,81-1/2 USD/bushel. Lúa mì CBOT kỳ hạn tháng 12 giảm 12 US cent xuống 8,38-3/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2023 đóng cửa giảm 0,25 US cent hay 1,4% xuống 18,13 US cent/lb sau khi giảm xuống mức thấp nhất hơn hai tuần tại 18,10 US cent; đường trắng kỳ hạn tháng 12 giảm 6,8 USD hay 1,3% xuống 526,2 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường này tiếp tục bị áp lực giảm bởi khả năng dư thừa đáng kể toàn cầu trong niên vụ 2022/23, một phần bởi dự đoán sản lượng tăng tại Brazil cũng như sản lượng tốt tại Ấn Độ và Thái Lan.
Tuy nhiên, họ lưu ý rằng nguồn cung này vẫn khan hiếm trong ngắn hạn, hợp đồng kỳ hạn tháng 3/2023 có giá cao hơn hợp đồng kỳ hạn tháng 5/2023 là 0,9 US cent.
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 đóng cửa giảm 0,5 US cent hay 0,3% xuống 1,904 USD/lb, mặc dù cao hơn mức thấp nhất 13 tháng tại 1,862 USD đã chạm tới trong tuần trước; cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2023 giảm 43 USD hay 2,2% xuống 1.953 USD/tấn, trước đó đã xuống mức thấp nhất kể từ cuối tháng 7 tại 1.946 USD/tấn.
Nhà môi giới Sucden Financial lưu ý rằng đà giảm có thể đang suy yếu và có thể có sự thay đổi xu hướng trong ngắn hạn.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản giảm xuống thấp nhất trong gần một tháng do sản lượng ô tô suy yếu trong bối cảnh thiếu hụt chip trên toàn cầu gây lo ngại về nhu cầu chậm lại, trong khi giá tại Thượng Hải giảm cũng gây sức ép lên tâm lý.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa giảm 1,3 JPY hay 0,6% xuống 219,9 JPY (1,5 USD)/kg. Giá đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 26/9 tại 219,4 JPY trong đầu phiên giao dịch. Tại Thượng Hải, cao su giao tháng 1/2023 giảm 60 CNY xuống 12.305 CNY (1.694 USD)/tấn, sau khi đạt mức thấp nhất kể từ ngày 9/9 tại 12.280 CNY/tấn trước đó trong phiên này.
Giá hàng hóa thế giới

 

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

84,63

+0,05

+0,06%

Dầu Brent

USD/thùng

93,21

-0,05

-0,05%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

74.560,00

+530,00

+0,72%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

5,22

+0,02

+0,31%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

274,05

+1,03

+0,38%

Dầu đốt

US cent/gallon

395,13

+3,12

+0,80%

Dầu khí

USD/tấn

1.074,75

-7,50

-0,69%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

84.840,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.652,80

-1,30

-0,08%

Vàng TOCOM

JPY/g

7.870,00

-32,00

-0,41%

Bạc New York

USD/ounce

19,18

0,00

-0,02%

Bạc TOCOM

JPY/g

90,10

-0,50

-0,55%

Bạch kim

USD/ounce

926,68

-1,40

-0,15%

Palađi

USD/ounce

1.987,31

+15,23

+0,77%

Đồng New York

US cent/lb

340,70

-2,35

-0,69%

Đồng LME

USD/tấn

7.556,00

-68,00

-0,89%

Nhôm LME

USD/tấn

2.175,00

-31,00

-1,41%

Kẽm LME

USD/tấn

2.958,00

+30,00

+1,02%

Thiếc LME

USD/tấn

18.450,00

-34,00

-0,18%

Ngô

US cent/bushel

680,25

-1,25

-0,18%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

838,00

-0,75

-0,09%

Lúa mạch

US cent/bushel

360,00

-2,25

-0,62%

Gạo thô

USD/cwt

16,55

-0,02

-0,15%

Đậu tương

US cent/bushel

1.380,25

-1,00

-0,07%

Khô đậu tương

USD/tấn

407,70

-1,00

-0,24%

Dầu đậu tương

US cent/lb

71,73

-0,14

-0,19%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

877,00

-4,20

-0,48%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.337,00

+31,00

+1,34%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

190,40

-0,50

-0,26%

Đường thô

US cent/lb

18,13

-0,25

-1,36%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

202,80

+5,80

+2,94%

Bông

US cent/lb

76,37

+0,24

+0,32%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

506,50

-32,50

-6,03%

Cao su TOCOM

JPY/kg

123,20

-0,60

-0,48%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)