Trên thị trường năng lượng, giá dầu vững sau khi số liệu cho thấy tồn kho dầu thô của Mỹ tăng ít hơn dự kiến nhưng số liệu kinh tế yếu.
Kết thúc phiên, giá dầu thô Brent giảm 1 US cent xuống 86,12 USD/thùng, trong khi dầu WTI tăng 2 US cent lên 80,15 USD/thùng. Dầu thô Brent đã giảm 2,3% và dầu thô WTI giảm 1,8% trong phiên liền trước sau khi số liệu cho thấy hoạt động kinh doanh của Mỹ thu hẹp trong tháng 1, giảm tháng thứ 7 liên tiếp, làm tăng lo ngại về suy thoái kinh tế.
Trong phiên giá dầu WTI có lúc đã tăng hơn 1 USD/thùng sau khi Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) công bố báo cáo cho thấy dự trữ dầu thô thương mại của nước này đã tăng 533.000 thùng trong tuần kết thúc ngày 20/1, lên mức 448,5 triệu thùng.
Trước đó, các nhà phân tích được thăm dò bởi Reuters đã dự đoán rằng dự trữ dầu thô của Mỹ sẽ tăng tới 1 triệu thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ EIA cho biết tồn kho dầu thô của Mỹ tăng 533.000 thùng trong tuần trước, đạt 448,5 triệu thùng. Giới phân tích trong thăm dò của Reuters dự kiến tăng 1 triệu thùng.
Phil Flynn, chuyên gia tại cơ quan phân tích Price Futures Group, cho biết: "Thị trường đang coi báo cáo của EIA là một yếu tố hỗ trợ". Tuy nhiên, mức tăng được công bố lại nhỏ hơn nhiều so với dự đoán và điều đó làm dấy lên lo ngại về tình trạng khan hiếm nguồn cung.
Dầu thô đã ghi nhận xu hướng tăng giá trong năm 2023, với giá dầu Brent chuẩn toàn cầu đạt mức 89 USD/thùng trong tuần này lần đầu tiên kể từ đầu tháng 12/2022, khi Trung Quốc nới lỏng các biện pháp kiểm soát COVID-19 và giới phân tích kỳ vọng chính sách thắt chặt của Mỹ sẽ có xu hướng hạ nhiệt.
Song song với đó, nguồn cung dầu cũng được dự báo duy trì ổn định do Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh, còn được gọi là OPEC+, nhiều khả năng sẽ tiếp tục duy trì mức sản lượng hiện tại trong cuộc họp dự kiến diễn ra ngày 1/2 tới./.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng trở lại do USD giảm và các nhà đầu tư theo dõi một loạt số liệu kinh tế sắp tới của Mỹ có thể ảnh hưởng tới cuộc họp chính sách tiền tệ của Cục dự trữ Liên bang trong tuần tới.
Giá vàng giao ngay tăng 0,2% lên 1.940,49 USD/ounce; vàng Mỹ kỳ hạn tháng 2 đóng cửa tăng 0,4% lên 1.942,6 USD/ounce. Giá đã giảm tới 0,6% trước đó trong phiên này. Việc điều chỉnh giá và chốt lời của nhà đầu tư là lý do giá vàng giảm nhẹ trong đầu phiên.
Chỉ số USD giảm 0,3% khiến vàng hấp dẫn hơn cho người mua bằng ngoại tệ khác.
Jim Wyckoff, chuyên gia phân tích cao cấp tại công ty chuyên kinh doanh các dịch vụ kim loại quý Kitco Metals, cho biết việc các nhà giao dịch đẩy mạnh bán ra chốt lời là lý do khiến giá vàng giảm nhẹ. Điều này được cho là lành mạnh để vàng kéo dài xu hướng tăng.
Tuy nhiên, đồng USD giảm nhẹ 0,3% trong phiên 25/1 lại là yếu tố khiến vàng trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Trước đó, giá vàng đã tăng lên mức cao nhất của 9 tháng hôm 24/1 do lo ngại về suy thoái kinh tế toàn cầu và giới đầu tư kỳ vọng Fed sẽ giảm tốc độ nâng lãi suất. Bộ Thương mại Mỹ sẽ công bố số liệu ước tính về Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong quý IV/2022 vào ngày 26/1. Điều này có thể mang đến những manh mối về dự định lãi suất tiếp theo của Fed trong cuộc họp chính sách dự kiến diễn ra trong các ngày 31/1-1/2. Lãi suất thấp là môi trường yêu thích của giới đầu tư vàng, bởi khi đó chi phí cơ hội của việc nắm giữ tài sản không sinh lời này sẽ giảm. Rupert Rowling, chuyên gia phân tích thị trường tại nền tảng trao đổi vàng trực tuyến hàng đầu thế giới Kinesis Money, cho biết xu hướng đảo chiều tăng giá của vàng bắt nguồn từ sự thay đổi trong tâm lý của các nhà đầu tư về thời điểm Fed sẽ tạm dừng việc tăng lãi suất, cùng với sự suy yếu của sàn giao dịch tiền điện tử FTX và đồng USD.
"Vàng sẽ cần một chất xúc tác mới để được đẩy lên mức cao hơn mức hiện nay", chuyên gia của Kinesis Money cho biết.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,6% lên 23,81 USD/ounce, trong khi giá bạch kim giảm 1,5% xuống 1.041,63 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm ngày thứ hai liên tiếp do nhu cầu yếu do vắng mặt Trung Quốc, nước tiêu thụ nhiều nhất đang nghỉ Tết Nguyên đán.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London giảm 0,1% xuống 9.310 USD/tấn. Giá kim loại này gần như không thay đổi kể từ ngày 19/1.
Đồng đã tăng hơn 10% trong đầu tháng 1, đạt cao nhất trong 7 tháng tại 9.550,5 USD/tấn vào ngày 18/1, do USD yếu và các nhà đầu cơ đặt cược việc Trung Quốc kết thúc những hạn chế về Covid-19 sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nhu cầu kim loại. Nhưng giá mất đà tăng khi các thị trường Trung Quốc đóng cửa vào ngày 20/1.
Trong khi nhu cầu của Trung Quốc sẽ tăng trong những tháng tới đang hỗ trợ giá, nhu cầu có thể vẫn yếu một thời gian sau giai đoạn nghỉ Tết. Điều này có thể dẫn tới tồn kho kim loại tăng mạnh tại Trung Quốc và nâng nguy cơ giảm giá trong ngắn hạn.
Lo sợ về nguồn cung cũng hỗ trợ giá đồng. Bất ổn xã hội tại Peru, nhà sản xuất đồng lớn thứ hai thế giới làm dấy lên lo sợ về gián đoạn tại các mỏ đồng.
Tại Chile, nhà sản xuất lớn nhất, một báo cáo của chính phủ cho thấy sản lượng đồng sẽ tăng ở tốc độ thấp nhất trong thập kỷ này so với hy vọng trước đó.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì kỳ hạn của Mỹ tăng vào thứ Tư do lo ngại rằng bất kỳ sự gia tăng căng thẳng nào trong cuộc chiến tranh ở Ukraine đều có thể làm tắc nghẽn nguồg xuất khẩu từ hai nhà xuất khẩu lúa mì lớn là Nga và Ukraine. Giá đậu tương kỳ hạn cũng tăng mạnh, đóng cửa gần mức cao nhất trong phiên nhờ một đợt mua bù và mua giá hời sau 5 phiên giảm giá liên tiếp. Tuy nhiên, giá ngô kỳ hạn giảm, bị mất đà tăng lúc đầu phiên do mưa ở Argentina thúc đẩy triển vọng cây trồng ở đó.
Kết thúc phiên này, trên sàn Chicago, giá lúa mì đỏ mềm mùa đông kỳ hạn tháng 3 tăng 6-3/4 cent ở mức 7,41-1/4 USD/bushel, đậu tương giao tháng 3 tăng 14 cent ở mức 15,02-1/4 USD/bushel, trong khi ngô giảm 2-1/4 cent xuống 6,74-3/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3 tăng 0,23 US cent hay 1,2% lên 20,11 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 3 giảm 0,7 USD hay 0,1% xuống 547 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường này được hỗ trợ từ tin tức Petrobras, công ty dầu nhà nước đang nâng giá xăng tại Brazil, một động thái có thể khuyến khích các nhà máy dùng mía để sản xuất ethanol sinh học hơn là sản xuất đường.
Họ cũng trích dẫn ý kiến cho rằng chính phủ Ấn Độ sẽ xác nhận lệnh cấm xuất khẩu đường bổ sung ngay bây giờ.
Gà phê arabica kỳ hạn tháng 3 đóng cửa tăng 2,6 US cent hay 1,6% lên 1,6245 USD/lb sau khi thiết lập mức cao nhất 3 tuần tại 1,6330 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 3 tăng 27 USD hay 1,4% lên 1.970 USD/tấn.
Giá đã tăng một vài tuần qua sau khi xuống thấp nhất 1,5 năm tại 1,4305 USD trong ngày 11/1. Các đại lý cho biết dự trữ được chứng nhận của sàn ICE ổn định sau khi tăng gần đây.
Giá cao su Nhật Bản tiếp tục tăng lên mức cao nhất trong hơn 3 tháng bởi lạc quan về sự phục hồi kinh tế tại Trung Quốc trong bối cảnh giao dịch yếu.
Hợp đồng cao su giao tháng 6 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 0,9 JPY hay 0,4% lên 233,1 JPY (1,79 USD)/kg. Trước đó trong phiên hợp đồng này đã đạt 234,3 JPY, cao nhất kể từ ngày 11/10.
Tâm lý nhu cầu tích cực gần đây sau khi Trung Quốc nới lỏng các biện pháp hạn chế Covid-19 vốn đã làm giảm tiêu dùng và hoạt động công nghiệp kể từ khi bắt đầu đại dịch.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
81,16
|
+1,01
|
+1,26%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
87,12
|
+1,00
|
+1,16%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
65.900,00
|
+1.240,00
|
+1,92%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,78
|
-0,28
|
-9,23%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
262,54
|
+3,20
|
+1,23%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
337,07
|
+0,94
|
+0,28%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
960,50
|
+3,00
|
+0,31%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
78.500,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.939,20
|
-20,20
|
-1,03%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
8.053,00
|
-28,00
|
-0,35%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
23,91
|
-0,03
|
-0,13%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
98,10
|
+0,30
|
+0,31%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.028,08
|
-14,17
|
-1,36%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.693,44
|
-5,50
|
-0,32%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
424,60
|
+0,15
|
+0,04%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
9.314,50
|
0,00
|
0,00%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.658,50
|
+8,00
|
+0,30%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.450,00
|
+21,00
|
+0,61%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
30.850,00
|
+890,00
|
+2,97%
|