Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm hơn 1 USD vào đầu phiên, song hồi phục trở lại vào cuối phiên do USD yếu đi và nhà đầu tư lại dấy lên lo ngại về nguồn cung sau phát biểu của Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia.
Kết thúc phiên, giá dầu Brent tăng 26 US cent lên 93,52 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 74 US cent lên 85,32 USD/thùng.
Chỉ số Dollar index giảm khiến dầu trở nên rẻ hơn đối với những người mua bằng ngoại tệ khác, từ đó đẩy giá tăng lên.
Một yếu tố khác hỗ trợ giá dầu là bình luận của Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia, Hoàng tử Abdulaziz bin Salman, rằng các kho dự trữ năng lượng đang được sử dụng như một cơ chế để thao túng thị trường.
"Nhiệm vụ của tôi là phải làm rõ rằng việc mất dự trữ khẩn cấp có thể gây tổn thất trong những tháng tới", ông Abdulaziz bin Salman nói tại hội nghị Đầu tư Sáng kiến Tương lai (FII) ở Riyadh.
Trong khi đó người đứng đầu Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), ông Fatih Biron, cho biết việc khan hiếm khí tự nhiên hóa lỏng trên toàn cầu và việc cắt giảm nguồn cung của các nhà sản xuất dầu lớn đã đẩy thế giới vào cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu thực sự lần đầu tiên.
Phil Flynn, một nhà phân tích của Price Futures Group, cho biết những bình luận từ Riyadh và từ IEA là "một lời nhắc nhở rằng, khi nói đến cuộc khủng hoảng năng lượng, hãy nhớ nó còn lâu mới kết thúc". "Vẫn có những lo ngại rằng thị trường không được cung cấp đầy đủ."
Tuy nhiên, hoạt động kinh tế không ổn định ở Mỹ và Trung Quốc, hai nước tiêu thụ dầu lớn nhất thế giới, đã hạn chế đà tăng của giá dầu.
Nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc trong tháng 9 thấp hơn 2% so với cùng tháng năm trước, trong khi hoạt động kinh doanh thu hẹp ở khu vực euro zone, Anh và Mỹ trong tháng 10.
Giám đốc điều hành của Goldman Sachs, David Solomon cho biết ông tin rằng một cuộc suy thoái ở Mỹ là rất có thể, trong khi cuộc suy thoái có thể đang xảy ra ở Châu Âu.
Ông cho biết tại hội nghị FII rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể tăng lãi suất chuẩn qua đêm vượt khỏi phạm vi 4,50% - 4,75% nếu không thấy những tác động rõ rệt.
Dự trữ dầu thô của Mỹ dự kiến tăng trong tuần này, điều này hạn chế đà tăng giá. Các nhà phân tích trong một thăm dò của Reuters ước tính trung bình rằng dự trữ dầu thô tăng 200.000 thùng trong tuần trước.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng đảo chiều tăng trở lại do USD yếu đi và nền kinh tế Mỹ có dấu hiệu suy yếu – có thể khiến Fed giảm tốc độ tăng lãi suất.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay tăng 0,4% lên 1.654,58 USD/ounce, trong khi vàng giao sau tăng 0,2% lên 1.658 USD/ounce.
Chỉ số USD giảm khoảng 0,9% khiến vàng rẻ hơn cho người mua bằng ngoại tệ khác.
Một cuộc khảo sát trong ngày 24/10 cho thấy hoạt động kinh doanh của Mỹ sụt giảm tháng thứ 4 liên tiếp làm dấy lên đặt cược Fed có thể kiềm chế lập trường tăng lãi suất tích cực.
Bob Haberkorn, chiến lược gia thị trường cấp cao của RJO Futures cho biết: “Chúng tôi đang thấy đồng đô la lộ rõ một số yếu điểm và một số tiền tệ khác tăng giá so với đồng bạc xanh, đẩy giá vàng tăng trở lại”.
Chỉ số đồng USD – được coi là thước đo "sức khỏe" của đồng bạc xanh so với các đồng tiền chủ chốt khác – đã giảm khoảng 0,9% trong phiên này, giúp vàng trở nên ít đắt hơn đối với người mua ở nước ngoài.
Theo ông Haberkorn, “nếu Fed tiếp tục tăng lãi suất dưới 75 điểm cơ bản dự kiến, điều đó sẽ báo hiệu sự chậm lại trong các đợt tăng tiếp theo và vàng sẽ lấy lại xu hướng tăng giá", nhưng “các nhà giao dịch vàng đang chờ đợi điều gì đó cụ thể hơn".
Một cuộc khảo sát công bố vào thứ Hai cho thấy hoạt động kinh doanh của Mỹ đã thu hẹp trong tháng thứ tư liên tiếp, làm dấy lên những đồn đoán rằng Fed có thể kiềm chế lập trường chính sách của mình.
Nếu Fed đưa ra một đợt tăng lãi suất thấp hơn mức 75 điểm cơ bản dự kiến, điều đó sẽ báo hiệu sự chậm lại trong các đợt điều chỉnh lãi suất này và giúp vàng đi lên. Nhưng chuyên gia Haberkorn nói thêm rằng các nhà giao dịch vàng đang chờ đợi điều gì đó cụ thể hơn.
Các nhà phân tích của Commerzbank cho biết: “Các nhà đầu tư vẫn đang phớt lờ vàng, do đó tạo ra cơn gió ngược dai dẳng cho kim loại quý này,” với dữ liệu định vị cho thấy phần lớn các nhà đầu tư tài chính đang tiếp tục đặt cược vào giá vàng giảm”.
Về những kim loại quý khác, gí bạc giao ngay tăng 0,4% lên 19,34 USD/ounce, trong khi bạch kim giảm 0,8% xuống 917,53 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do thị trường tập trung vào tăng trưởng và nhu cầu đang chậm lại trên khắp thế giới, mặc dù một số yếu tố hỗ trợ giá như mức tồn kho thấp tại các kho của LME.
Kết thúc phiên giao dịch, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch LME giảm 0,5% xuống 7.518 USD/tấn. Giá kim loại này được nhà đầu tư sử dụng để đánh giá sức khỏe nền kinh tế, đã giảm 30% kể từ khi đạt mức đỉnh tại 10.845 USD/tấn hồi tháng 3.
Các nhà phân tích của ngân hàng Citi dự kiến giá đồng giảm xuống 6.200 USD/tấn trong ba tháng tới, bởi cuộc suy thoái do Châu Âu dẫn đầu.
Dự trữ đồng tại kho của LME đã giảm 8% kể từ ngày 13/10, xuống 134.400 tấn. Lo lắng nguồn cung khan hiếm trên thị trường đã khiến đồng giao ngay cao hơn đồng giao sau ba tháng tới 109 USD/tấn. Dự trữ đồng tại các kho ngoại quan của Trung Quốc đã giảm xuống 25.000 tấn từ hơn 270.000 tấn hồi cuối tháng 6.
Về nhôm, nhà phân tích tài chính Geordie Wilkes của Sucden Financial cho biết: "Áp lực giảm giá vẫn còn khi sản lượng nhôm của Trung Quốc tăng".
Sản lượng nhôm sơ cấp của Trung Quốc đã tăng lên 3,42 triệu tấn trong tháng 9, tăng 9,3% so với một năm trước đó, với các nhà máy luyện ở một số khu vực chính tăng sản lượng sau khi các nhà chức trách ở nước sản xuất kim loại hàng đầu thế giới này nới lỏng các hạn chế về tiêu thụ điện.
Giá nhôm trên sàn LME tăng 2,3% ở 2.226 USD/tấn, kẽm giảm 2,1% xuống 2.897,50 USD, chì giảm 0,8% xuống 1.873 USD, thiếc giữ nguyên ở mức 18.455 USD và niken tăng 0,1% ở mức 22.280 USD.
Giá sắt thép đồng loạt giảm, với quặng sắt trên sàn Đại Liên xuống mức thấp nhất 7 tuần trong khi giá tại Singapore giảm xuống dưới 89 USD/tấn do mùa nhu cầu thép cao điểm của Trung Quốc kết thúc với kết quả đáng thất vọng.
Trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2023 lúc đóng cửa giảm 1,9% xuống 669,5 CNY (91,64 USD)/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 2/9 tại 662,5 CNY. Tại Singapore, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 11 giảm 2,4% xuống 88,5 USD/tấn, sau khi xuống mức thấp nhất 11 tháng tại 88,2 USD trong phiên này. Trong khiu đó, giá quặng sắt hàm lượng 62% Fe giao ngay cũng tiếp tục giảm xuống dưới 100 USD/tấn, giảm khoảng 40% từ mức đỉnh năm 2022 cao hơn 160 USD/tấn một chút.
Giá thép tại Thượng Hải hầu như giảm, với thép thanh giảm 1,7%, thép cuộn cán nóng giảm 1,1%. Thép không gỉ giảm 1,3%. Nhu cầu thép tại Trung Quốc, đặc biệt từ lĩnh vực xây dựng, thường tăng trong tháng 9 và tháng 10.
Trên thị trường nông sản, giá ngô Mỹ tăng nhẹ do việc mua vào theo yếu tố kỹ thuật và sự hỗ trợ từ các thị trường bên ngoài. Hợp đồng ngô kỳ hạn tháng 12 trên sàn giao dịch Chicago lúc đóng cửa tăng 4-3/4 US cent lên 6,86-1/4 USD/bushel.
Giá đậu tương mạnh lên do thị trường phục hồi một phần sau những tổn thất trong phiên liền trước, với đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 11 tăng 10 US cent lên 13,82 USD/bushel. Mưa tại khu vực Midwest dự kiến làm trì hoãn vụ thu hoạch ở một số nơi.
Giá lúa mì giảm bởi nhu cầu yếu và mưa thuận lợi cho các khu vực trồng trọt khô hạn của Mỹ.
Lúa mì CBOT mềm đỏ vụ đông kỳ hạn tháng 12 đóng cửa giảm 4 US cent xuống 8,34-3/4 USD/bushel. Xuất khẩu lúa mì Biển Đen cũng gây áp lực lên giá bất chấp tính trạng không chắc chắn về tương lai của hành lang vận chuyển thời chiến từ Ukraine.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2023 đóng cửa giảm 0,02 US cent xuống 18,11 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 12 giảm 1,9 USD hay 0,4% xuống 524,3 USD/tấn.
Các đại lý lưu ý sản lượng đường tại khu vực Trung Nam Brzil trong nửa đầu tháng 10 đạt tổng cộng 1,83 triệu tấn, tăng 59% so với cùng kỳ một năm trước. Mức tăng này là thấp hơn dự kiến một chút so với cuộc khảo sát của S&P Global Commodity Insights ước tính rằng sản lượng đường tăng lên 1,95 triệu tấn. Nhà phân tích Datagro dự báo lượng đường dư thừa trong niên vụ 2022/23 lên tới 1,87 triệu tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 giảm 4,6 US cent xuống 1,858 USD/lb sau khi xuống mức thấp nhất 13 tháng tại 1,84 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2023 giảm 5 USD hay 0,3% xuống 1948 USD/tấn.
Các đại lý cho biết các quỹ đang giảm quy mô vị thế mua, mưa gần đây tại Brazil hỗ trợ việc ra hoa trong khi có những lo ngại về suy thoái kinh tế toàn cầu có thể hạn chế nhu cầu.
Giá cao su Nhật Bản kết thúc chuỗi giảm kéo dài 5 phiên, trong bối cảnh thị trường chứng khoán trong nước mạnh lên và thị trường Thượng Hải tăng nhẹ, mặc dù nhu cầu của Trung Quốc trong dài hạn vẫn u ám bất chấp tăng trưởng kinh tế của nước này vượt dự báo trong quý 3.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 3/2023 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 2,7 JPY hay 1,2% lên 222,6 JPY (1,5 USD)/kg. Tại Thượng Hải hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 1/2023 tăng 25 CNY lên 12.370 CNY (1.693 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 11 trên sàn Singapore giảm 0,8% xuống 123,5 U.S. cents/kg.
Những tháng qua đã chứng kiến mối lo ngại ngày càng tăng về nhu cầu cao su đang chậm lại tại Trung Quốc khi nước này đang vật lộn với khủng hoảng bất động sản, các đợt nắng nóng làm gián đoạn sản xuất và việc phong tỏa kéo dài ảnh hưởng tới hoạt động công nghiệp và tiêu dùng.
Sản lượng cao su tại Thái Lan có thể bị ảnh hưởng bởi các dự báo mưa tiếp tục và cảnh báo lụt tại các tỉnh trồng cao su truyền thống.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
84,84
|
-0,48
|
-0,56%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
92,82
|
-0,70
|
-0,75%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
74.750,00
|
-50,00
|
-0,07%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
5,69
|
+0,08
|
+1,44%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
289,37
|
-2,23
|
-0,76%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
394,51
|
-2,21
|
-0,56%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
1.070,00
|
-2,25
|
-0,21%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
83.000,00
|
-1.840,00
|
-2,17%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.658,40
|
+0,40
|
+0,02%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
7.864,00
|
-6,00
|
-0,08%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
19,34
|
-0,01
|
-0,07%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
89,90
|
0,00
|
0,00%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
923,35
|
+4,22
|
+0,46%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.954,67
|
+19,31
|
+1,00%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
340,00
|
+0,30
|
+0,09%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
7.523,00
|
-33,00
|
-0,44%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.215,00
|
+40,00
|
+1,84%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.905,00
|
-53,00
|
-1,79%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
18.477,00
|
+27,00
|
+0,15%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
684,50
|
-1,75
|
-0,25%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
832,50
|
-2,25
|
-0,27%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
348,25
|
-9,25
|
-2,59%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
16,54
|
+0,01
|
+0,03%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.395,75
|
+3,50
|
+0,25%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
414,10
|
-1,50
|
-0,36%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
72,45
|
+0,17
|
+0,24%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
875,30
|
+8,50
|
+0,98%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.296,00
|
-41,00
|
-1,75%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
185,80
|
-4,60
|
-2,42%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
18,11
|
-0,02
|
-0,11%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
202,40
|
-0,40
|
-0,20%
|
Bông
|
US cent/lb
|
78,36
|
-0,11
|
-0,14%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
486,80
|
-21,80
|
-4,29%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
123,10
|
+0,20
|
+0,16%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|