Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng khoảng 1% sau 2 phiên đầu năm giảm mạnh nhất trong vòng 3 thập kỷ, sau khi dữ liệu của Mỹ cho thấy tồn kho nhiên liệu giảm.
Sự sụt giảm mạnh trong hai ngày trước đó là do lo ngại về suy thoái kinh tế toàn cầu, đặc biệt là sau các dấu hiệu kinh tế yếu kém trong ngắn hạn ở hai quốc gia tiêu thụ dầu lớn nhất thế giới là Mỹ và Trung Quốc.
Dự trữ sản phẩm chưng cất của Mỹ giảm nhiều hơn dự kiến do một cơn bão mùa đông ập đến Mỹ vào cuối tháng 12, dữ liệu từ Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ hôm thứ Năm cho thấy.
Cơ quan Thông tin Năng lượng cho biết dự trữ xăng của nước này đã giảm 346.000 thùng trong tuần trước, so với dự đoán của các nhà phân tích trong cuộc thăm dò của Reuters là giảm 486.000 thùng.
Các kho dự trữ sản phẩm chưng cất, bao gồm dầu diesel và dầu sưởi, đã giảm 1,4 triệu thùng trong tuần đó, so với dự đoán là giảm 396.000 thùng.
John Kilduff, đối tác của Again Capital LLC ở New York, cho biết: “Tác động của cơn bão trong khoảng thời gian đó được thể hiện đầy đủ ở đây.
Giá dầu thô Brent kết thúc phiên tăng 85 cent, tương đương 1,1%, ở mức 78,69 USD/thùng. Giá dầu thô Trung cấp Tây Texas của Mỹ (WTI) tăng 83 cent, tương đương 1,2%, lên 73,67 USD/thùng.
Theo dữ liệu của Refinitiv Eikon, mức giảm cộng dồn hơn 9% của cả hai loại trong phiên vào thứ Ba và thứ Tư là mức giảm lớn nhất trong hai ngày vào đầu năm kể từ năm 1991.
Hỗ trợ giá trước đó trong phiên là một tuyên bố từ nhà điều hành đường ống hàng đầu của Mỹ Colonial Pipeline, cho biết dây chuyền số 3 của họ đã bị đóng cửa đột xuất để bảo trì và dự kiến khởi động lại dây chuyền sản phẩm vào ngày 7 tháng 1.
Chuyên gia Tamas Varga của nhà môi giới dầu mỏ PVM cho biết giá tăng trở lại vào đầu phiên là do đường ống ngừng hoạt động, và nói thêm: "Không còn nghi ngờ gì nữa, xu hướng phổ biến là giảm; đó là một thị trường giá xuống."
Phản ánh xu hướng giảm giá trong ngắn hạn, các hợp đồng gần nhất của hai loại dầu được giao dịch với mức chiết khấu cho tháng tiếp theo, một cấu trúc được gọi là “contango”.
Vào thứ Tư, các số liệu cho thấy hoạt động sản xuất của Mỹ tiếp tục sụt giảm trong tháng 12 đã gây áp lực lên giá cả, cũng như những lo ngại về sự gián đoạn kinh tế khi COVID-19 lây lan qua Trung Quốc, quốc gia đã đột ngột bỏ các biện pháp hạn chế nghiêm ngặt đối với hoạt động và đi lại.
Đối với mặt hàng khí đốt, giá khí đốt tự nhiên kỳ hạn tương lai trên thị trường Mỹ giảm gần 11% xuống mức thấp nhất trong một năm vào thứ Năm do lượng dự trữ giảm hơn dự kiến và dự báo thời tiết ấm hơn bình thường sẽ tiếp tục kéo dài đến cuối tháng Giêng.
Điều đó sẽ giữ cho nhu cầu sưởi ấm ở mức thấp trong thời gian thường là thời điểm lạnh nhất trong năm và cho phép các nhà máy điện tiết kiệm được nhiều khí đốt hơn bình thường trong những tuần tới.
"Tháng 1 năm 2023 có khởi đầu ấm áp nhất trong hơn 15 năm - khiến hợp đồng khí đốt giảm hơn 40% trong vòng chưa đầy ba tuần," các nhà phân tích của công ty tư vấn năng lượng EBW Analytics cho biếtý. "Sự chuyển đổi khắc nghiệt từ cái lạnh kỷ lục trong lễ Giáng sinh sang sự ấm áp đặc biệt để bắt đầu năm 2023 đang dẫn đến sự bùng nổ của thị trường."
Hợp đồng khí đốt kỳ hạn tương lai của Mỹ, sau khi tăng khoảng 5% vào thứ Tư, đã giảm 45,2 cent vào thứ Năm, tương đương 10,8%, xuống mức 3,72 USD/mmBtu, mức đóng cửa thấp nhất của hợp đồng kể từ ngày 4 tháng 1 năm 2022. Tính chung trong 3 tuần qua, giá đã giảm khoảng 44%.
Tại châu Âu, giá khí đốt bán buôn nhanh chóng của Anh và Hà Lan biến động trái chiều vào thứ Năm do lượng dự trữ cao và dự báo thời tiết ổn định ở châu Âu với thời tiết ấm hơn và gió mạnh, tuy nhiên, ở Anh dự kiến sẽ mát hơn một chút vào tuần tới.
Theo dữ liệu của Refinitiv Eikon, hợp đồng khí đốt giao tháng 2 tại Hà Lan TRNLTTFMc1 đã tăng 0,85 euro lên 65,85 euro mỗi megawatt giờ (MWh), trong khi hợp đồng giao tháng 4 giảm 1,50 euro xuống 69,00 euro/MWh.
Theo dữ liệu của Refinitiv Eikon, hợp đồng khí đốt giao trong ngày của Anh giảm 1 pence xuống 135 p/nhiệt, trong khi hợp đồng TRGBNBPMc1 giao tháng trước tăng 0,2 pence lên 155 pence/therm.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm hơn 1% sau khi các báo cáo về thị trường lao động Mỹ cho thấy vẫn trong tình trạng thắt chặt hơn dự kiến, thúc đẩy kỳ vọng lãi suất sẽ tiếp tục tăng trong thời gian dài. Về cuối phiên, giá hồi phục chút ít sau khi Fed đưa ra nhận định rằng lạm phát sẽ giảm bớt vào năm 2023.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay giảm 0,9% xuống 1.837,01 USD/ounce, trong phiên có lúc xuống mức thấp chỉ 1824,08 USD; vàng kỳ hạn tháng 2 giảm khoảng 1% ở mức 1.840,6 USD.
Phillip Streible, giám đốc chiến lược thị trường của Blue Line Futures ở Chicago, cho biết sức mạnh của chỉ số Dollar index đang đè nặng lên vàng, đồng thời nhấn mạnh rằng Fed sẽ tiếp tục duy trì quan điểm thắt chặt tiền tệ lâu hơn khi thị trường lao động tiếp tục mạnh mẽ.
Đồng USD tăng 0,7%, khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với những người nắm giữ ngoại tệ, tuy nhiên, lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm lại giảm xuống.
Lãi suất tăng luôn có xu hướng ảnh hưởng đến vàng thỏi không mang lại lợi suất vì không có lãi.
Số lượng người Mỹ nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp mới đã giảm xuống mức thấp nhất trong ba tháng vào tuần trước trong khi tỷ lệ sa thải giảm 43% trong tháng 12, cho thấy thị trường lao động đang bị thắt chặt.
Triển vọng kinh tế Mỹ do nhân viên Fed trình bày tại cuộc họp tháng trước cho thấy cuộc chiến giảm giá có thể kéo dài hơn dự kiến.
Trong khi một số quan chức Fed hôm thứ Năm nhắc lại rằng cuộc chiến của họ để giảm lạm phát trở lại mục tiêu 2%, thì nhà lãnh đạo St. Louis James Bullard cho biết năm 2023 cuối cùng có thể mang lại một số cứu trợ đáng hoan nghênh trên mặt trận lạm phát.
Các thương nhân hiện đang chờ dữ liệu bảng lương phi nông nghiệp (NFP) của Bộ Lao động Mỹ sẽ công bố vào thứ Sáu.
Ông Streible nói thêm: “Nếu chúng ta nhận được cùng một loại ‘kỳ vọng giá tăng’, có thể chúng ta sẽ thấy một đợt giá vàng và bạc tăng thêm nữa – 1805 – 1800 USD, là mức hỗ trợ chính”.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 1,7% xuống 23,32 USD/ounce, bạch kim giảm 1,5% xuống 1.062,06 USD trong khi palladium giảm 2,8% xuống 1.738,75 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng trở lại vào thứ Năm, kết thúc chuỗi 4 phiên giảm, do các nhà đầu cơ giá xuống đảo ngược vị thế của họ sau khi có tin tức về khoản đầu tư mới vào nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới - Trung Quốc. Tuy nhiên, USD mạnh lên hạn chế đà tăng giá kim loại này.
Kết thúc phiên, giá đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch London tăng 1,7% lên 8.389 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất trong hai tháng vào thứ Tư do lo ngại về nhu cầu và tăng trưởng kinh tế chậm lại. Giá đồng kỳ hạn trên sàn Comex của Mỹ tăng 1,8% lên 3,81 USD/lb.
Trung tâm sản xuất phía nam của Trung Quốc là Quảng Châu đang lên kế hoạch cho 1.722 dự án vào năm 2023 trị giá hơn 6,5 nghìn tỷ nhân dân tệ (945 tỷ USD), phương tiện truyền thông nhà nước CCTV đưa tin hôm thứ Năm.
Ole Hansen, người đứng đầu bộ phận chiến lược hàng hóa của ngân hàng Saxo ở Copenhagen cho biết: “Biết điều gì sẽ xảy ra trong năm sau hai ngày giao dịch là điều gần như không thể”.
Tuy nhiên, giá khó có thể tăng nhiều do lo ngại tiềm ẩn về các ca nhiễm COVID-19 gia tăng ở Trung Quốc và hoạt động công nghiệp toàn cầu suy yếu.
Trong số các kim loại khác, giá nhôm trên sàn LME giảm 0,5% xuống 2.256 USD/tấn, niken giảm 6,7% xuống 27.770 USD, chì giảm 2,5% xuống 2.212,50 USD, thiếc giảm 0,6% xuống 24.950 USD, nhưng kẽm tăng 0,3% lên 3.000 USD.
Giá quặng sắt kỳ hạn tại Đại Liên và Singapore sụt giảm vào thứ Năm, chịu áp lực bởi những lo ngại về triển vọng nhu cầu tại nhà sản xuất thép hàng đầu thế giới - Trung Quốc, do sự gia tăng các ca nhiễm COVID đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế trong nước.
Tâm lý chung của thị trường cũng bị giảm sút do nhu cầu thép suy yếu trong kỳ nghỉ lễ và mùa đông ở Trung Quốc.
Trong khi việc dỡ bỏ đáng kể các biện pháp kiểm soát đại dịch của Trung Quốc đã làm tăng cơ hội phục hồi cho nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, thì các đợt bùng phát COVID đã che mờ triển vọng ngắn hạn.
Hợp đồng quặng sắt giao tháng 5 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc - được giao dịch nhiều nhất - đã giảm 1,7% xuống 836 nhân dân tệ (121,45 USD)/tấn. Trên Sàn giao dịch Singapore, quặng sắt giao tháng 2 giảm 1% xuống 113,90 USD/tấn.
Giá thép phiên này cũng giảm, với thép cây trên sàn Thượng Hải giảm 1%, thép cuộn cán nóng giảm 0,7%, dây thép cuộn giảm 0,4% và thép không gỉ giảm 2,4%.
Trên thị trường nông sản, giá giá lúa mì Mỹ tăng do hoạt động mua mạnh sau khi giá giảm xuống mức thấp nhất trong gần 4 tuần ở phiên liền trước.
Giá n gô và đậu tương chạm mức thấp nhất trong hai tuần do lo ngại về nhu cầu và những trở ngại kinh tế, bao gồm cả tác động của các ca nhiễm COVID-19 gia tăng ở Trung Quốc – yếu tố tiếp tục đeo bám thị trường nông sản. Các chỉ số chính của Phố Wall cũng giảm do lo ngại về lãi suất tăng cao trong thời gian dài hơn dự kiến.
Hợp đồng lúa mì giao dịch nhiều nhất trên sàn Chicago kết thúc phiên tăng 1-1/4 US cent lên 7,46-3/4 USD/bushel, trước đó giá đã chạm mức giá thấp nhất kể từ ngày 9 tháng 12 là 7,36 USD/bushel. Giá đậu tương giảm 12-3/4 cent xuống 14,70-3/4 USD/bushel, sau khi có lúc chạm mức nhất kể từ ngày 22 tháng 12 là 14,65 USD/bushel; giá ngô xuống thấp nhất kể từ ngày 20 tháng 12, là 6,48-1/2 USD, trước khi hồi phục nhẹ để chỉ còn giảm hơn 1 US cent xuống 6,52-3/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn trên sàn ICE chạm mức thấp nhất trong 3,5 tuần vào thứ Năm do triển vọng nguồn cung tại các nước sản xuất chính tiếp tục cải thiện, mặc dù giá dầu tăng đã giúp đà giảm của giá đường không đi quá sâu.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3 giảm 0,2 cent, tương đương 1%, xuống 19,34 cent/lb, sau khi chạm mức thấp là 19,32 USD. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 3 cũng giảm 8,40 USD, tương đương 1,5%, xuống 534,70 USD/tấn, chạm mức thấp nhất trong ba tuần.
Các đại lý cho biết đường thô, đạt mức cao nhất kể từ tháng 2 năm 2017 vào cuối tháng 12, vẫn chưa tìm được sự hỗ trợ do các quỹ thanh lý dần các hợp đồng mua.
Họ lưu ý rằng những cơn mưa ở nhà sản xuất hàng đầu Brazil cho thấy có thể bắt đầu sớm một vụ thu hoạch mới, với sản lượng dự kiến tăng lên. Đồng thời, sản xuất ở Ấn Độ đang tiến triển tốt và vụ thu hoạch ở Thái Lan có khởi đầu thuận lợi.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3 giảm 0,75 cent, tương đương 0,5%, xuống 1,6055 USD/lb, sau khi giảm xuống mức thấp nhất trong ba tuần là 1,5925 USD. Giá cà phê robusta giao cùng kỳ hạn giảm 41 USD, tương đương 2,2%, xuống 1.832 USD/tấn.
Nhìn chung, cà phê arabica đang chịu áp lực do thời tiết thuận lợi cho sự phát triển của cây trồng tại Brazil, nhà sản xuất hàng đầu thế giới. Các chuyên gia coi tháng 1 là tháng quan trọng để xác định tiềm năng của vụ mùa mới. “Nếu trời mưa tốt, chúng tôi có thể có một vụ sản xuất tốt,” một nhà môi giới ở Brazil cho biết.
Sản lượng cà phê arabica đã qua chế biến của Colombia đã giảm 12% trong năm ngoái xuống còn 11,1 triệu bao loại 60 kg do thời tiết ẩm ướt kéo dài.
Giá cà phê tại nhà sản xuất cà phê robusta hàng đầu Việt Nam tăng trong tuần này do lo ngại về thời tiết, trong khi thị trường Indonesia vẫn trầm lắng do nguồn cung yếu hơn.
Giá cao su kỳ hạn trên thị trường Nhật Bản giảm nhẹ vào thứ Năm, theo sau đà giảm tại thị trường Thượng Hải trong bối cảnh tiếp tục có những lo ngại về suy thoái kinh tế toàn cầu.
Hợp đồng cao su giao tháng 6 của Sở giao dịch Osaka kết thúc phiên giảm 0,2 yên, tương đương 0,1%, xuống 221,8 yên (1,68 USD)/kg. Hợp đồng cao su giao tháng 5 trên sàn giao dịch Thượng Hải giảm 80 NDT xuống còn 13.010 NDT (1.893 USD)/tấn. Hợp đồng cao su kỳ hạn giao tháng 2 trên nền tảng SICOM của Sở giao dịch Singapore giảm 0,2% xuống 133,2 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
73,67
|
+0,83
|
+1,14%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
78,84
|
+1,00
|
+1,28%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
60.050,00
|
+290,00
|
+0,49%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,72
|
-0,45
|
-10,83%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
226,71
|
+0,79
|
+0,35%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
297,23
|
+0,04
|
+0,01%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
865,25
|
+22,50
|
+2,67%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
78.500,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.840,60
|
-18,40
|
-0,99%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
7.845,00
|
-29,00
|
-0,37%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
23,42
|
-0,54
|
-2,25%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
98,00
|
-1,70
|
-1,71%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.062,35
|
+0,03
|
+0,00%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.748,97
|
+3,58
|
+0,21%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
382,10
|
+8,05
|
+2,15%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.252,00
|
-69,50
|
-0,84%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.266,50
|
-44,50
|
-1,93%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.992,00
|
-10,00
|
-0,33%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
25.095,00
|
-378,00
|
-1,48%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
652,75
|
-1,00
|
-0,15%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
746,75
|
+1,25
|
+0,17%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
345,75
|
-12,00
|
-3,35%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
17,65
|
-0,12
|
-0,70%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.470,75
|
-12,75
|
-0,86%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
464,90
|
+2,20
|
+0,48%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
62,42
|
-0,43
|
-0,68%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
865,30
|
-3,70
|
-0,43%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.617,00
|
+14,00
|
+0,54%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
160,55
|
-0,75
|
-0,47%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,34
|
-0,20
|
-1,02%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
205,90
|
+2,50
|
+1,23%
|
Bông
|
US cent/lb
|
82,58
|
+2,14
|
+2,66%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
365,10
|
-9,30
|
-2,48%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
136,00
|
-0,30
|
-0,22%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|