Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm xuống mức thấp nhất trong năm nay, mất đi tất cả mức tăng kể từ khi xung đột Nga – Ukraine làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ.
Kết thúc phiên, giá dầu thô Brent giảm 2,18 USD hay 2,8% xuống 77,17 USD/thùng, thấp hơn hẳn mức đóng cửa thấp nhất trước đó, là 78,98 USD/thùng chạm tới trong ngày đầu tiên của năm 2022; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 2,24 USD xuống 72,01 USD/thùng.
Giá dầu đã tăng lên gần 140 USD/thùng hồi tháng 3, gần mức cao kỷ lục, sau khi Moscow triển khai chiến dịch đặc biệt tại Ukraine. Thị trường đã ổn định dần trong những tháng sau đó khi các nhà kinh tế chuẩn bị cho tăng trưởng trên toàn cầu suy yếu một phần do giá năng lượng cao. Giá sụt giảm trong phiên bởi tồn trữ nhiên liệu của Mỹ tăng lớn hơn dự kiến.
Gần đây, thị trường dầu xuất hiện thêm nhiều yếu tố tác động mới, cả tích cực và tiêu cực. Trung Quốc, nước nhập khẩu dầu thô lớn nhất thế giới, thông báo thay đổi mạnh mẽ cơ chế chống Covid. Nhập khẩu dầu thô của nước này trong tháng 11 tăng 12% so với một năm trước lên mức cao nhất trong 10 tháng.
Bên cạnh đó, Nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7) đã bắt đầu thực hiện chính sách áp giá trần để hạn chế xuất khẩu dầu của Nga. Động thái này có thể làm giảm sản lượng dầu của Nga trong năm tới.
Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, dự trữ sản phẩm chưng cất của nước này tăng 6,2 triệu thùng, vượt xa ước tính tăng 2,2 triệu thùng. Dự trữ xăng tăng 5,3 triệu thùng so với dự đoán tăng 2,7 triệu thùng. Dự trữ nhiên liệu tăng có ảnh hưởng hơn dự trữ dầu thô giảm 5,2 triệu thùng. Viện Dầu khí Mỹ đã báo cáo dự trữ dầu thô giảm khoảng 6,4 triệu thùng.
Tuy nhiên, ông Claudio Galimberti, quan chức cấp cao của công ty tư vấn Rystad Energy, cho rằng vẫn còn rất nhiều điều không chắc chắn trên thị trường và sản lượng dầu thô tại Nga có thể không giảm nhiều như dự kiến trước đó. Các ngân hàng lớn của Mỹ đã đưa ra những cảnh báo về khả năng một cuộc suy thoái vào năm tới đã gây áp lực cho thị trường. Vị thế mua ròng của một số quỹ đầu cơ hiện nay ở mức thấp nhất 6 năm với một số quỹ đã thanh lý trong vài ngày qua.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng hơn 1% do USD và lợi suất trái phiếu của Mỹ giảm khi các nhà đầu tư dự đoán Cục dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất chậm lại tại cuộc họp chính sách vào tuần tới.
Giá vàng giao ngay tăng 1,1% lên 1.789,67 USD/ounce; vàng giao sau tăng 0,9% lên 1.798 USD/ounce.
Ông Bart Melek, người đứng đầu bộ phận chiến lược thị trường hàng hóa tại công ty môi giới tài chính TD Securities (Canada), nhận định vàng đang phục hồi khi lợi suất trái phiếu và đồng USD đều giảm.
Phiên này, đồng bạc xanh đã giảm 0,5% so với các đồng tiền khác, còn lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm giảm xuống mức thấp gần ba tháng.
Hiện những người tham gia thị trường đều kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ tăng lãi suất 50 điểm cơ bản tại cuộc họp cuối cùng của năm 2022 dự kiến diễn ra từ ngày 13-14/12. Môi trường lãi suất cao hơn là nhân tố bất lợi đối với thị trường vàng.
Dự kiến, số liệu về chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2022 của Mỹ sẽ được công bố vào tuần tới.
Trong khi đó, một số người bày tỏ lo ngại rằng các số liệu kinh tế lạc quan gần đây của Mỹ có thể khiến Fed tăng lãi suất nhiều hơn so với dự kiến.
Ông Melek lưu ý một số người đang tỏ ra nghi ngờ về khả năng các nhà giao dịch đã quá vội vàng khi dự đoán Fed sẽ chuyển sang lập trường ôn hòa hơn.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 2,9% lên 22,81 USD/ounce. Nhà phân tích Rupert Rowling của Kinesis Money cho biết: Mặc dù bạc chắc chắn phải đối mặt với suy thoái kinh tế do tính chất được sử dụng nhiều trong lĩnh vực công nghiệp, nhưng kim loại quý này có thể không bị ảnh hưởng quá nhiều bởi bất kỳ cuộc suy thoái nào do sự nổi bật của về vai trò trong quá trình chuyển đổi năng lượng.
Giá bạch kim phiên này tăng 1,8% lên 1.006,33 USD/ounce, trong khi palladium tăng 0,4% lên 1.856,20 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá nhôm giảm sau khi số liệu thương mại của Trung Quốc yếu làm dấy lên lo lắng về nhu cầu từ nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới, làm lu mờ việc nới lỏng các hạn chế Covid-19 trong quốc gia này.
Giá nhôm giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London LME giảm 0,8% xuống 2.489 USD/tấn.
Giá kẽm phiên này tăng 0,7% sau khi Nyrstar cho biết nhà máy luyện kẽm Auby của họ ở miền bắc nước Pháp đã được đưa vào bảo trì cho đến khi có thông báo mới. Trong số các kim loại khác, giá đồng trên sàn LME vững ở mức 8.419 USD/tấn, niken tăng 0,2% lên 29.325 USD, thiếc giảm 2,2% xuống 24.260 USD và chì giảm 0,5% xuống 2.210 USD.
Cũng gây áp lực lên thị trường này là số liệu xuất nhập khẩu của Trung Quốc yếu kém trong tháng 11. Giá nhôm đã tăng khoảng 12% kể từ đầu tháng 11, phần lớn do hy vọng nhu cầu phục hồi tại Trung Quốc. Đồng thời, đồng USD yếu đi khiến các hàng hóa định giá bằng đồng tiền này rẻ hơn cho người mua bằng các ngoại tệ khác.
Giá quặng sắt tiếp tục giảm do số liệu thương mại của Trung Quốc tháng 11 kém hơn dự kiến làm giảm bớt ảnh hưởng từ sự thay đổi lớn trong chính sách ngăn chặn Covid của Bắc Kinh, trong khi sự thận trọng cũng xuất hiện trước các dấu hiệu rằng thị trường đang mua quá mức.
Xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc tháng 11 giảm với tốc độ mạnh nhất trong 2,5 năm trong bối cảnh nhu cầu yếu trong và ngoài nước, với suy thoái toàn cầu đang đe dọa triển vọng thương mại năm 2023.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc đóng cửa giảm 1,9% xuống 765 CNY (109,63 USD)/tấn. Giá quặng sắt Đại Liên tăng khoảng 10% trong quý này, bởi các chính sách của Trung Quốc nhằm hỗ trợ các nhà phát triển bất động sản trong nước và việc nới lỏng những hạn chế về Covid. Tại Singapore, hợp đồng quặng sắt giao tháng 1/2023 giảm 2% xuống 106 USD/tấn. Tại Thượng Hải thép thanh giảm 0,6% và thép cuộn cán nóng giảm 0,4%, thép không gỉ tăng 0,1%.
Trong ngày 7/12 Trung Quốc đã công bố các biện pháp mới đánh dấu sự thay đổi lớn trong chính sách chống virus nghiêm ngặt mà đã tác động xấu tới nền kinh tế và gây ra các cuộc biểu tình trên đường phố.
Nhập khẩu quặng sắt trong tháng 11 của Trung Quốc đạt tổng cộng 98,85 triệu tấn, tăng 4,1% so với tháng trước, đưa tổng nhập khẩu trong 11 tháng năm nay đạt 1,02 tỷ tấn.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì Mỹ tăng do mua vào theo kỹ thuật sau khi giảm xuống mức thấp nhất 13 tháng trước đó trong tuần này, do nguồn cung toàn cầu đè nặng lên thị trường Mỹ. Đậu tương tăng, bởi lạc quan về nhu cầu xuất khẩu và tình trạng khô hạn tại quốc gia xuất khẩu hàng đầu Argentina. Giá ngô tăng theo xu hướng giá lúa mì và đậu tương, bất chấp giá dầu thô giảm.
Hợp đồng lúa mì giao dịch nhiều nhất trên sàn giao dịch Chicago đóng cửa tăng 20-1/2 US cent lên 7,49-1/2 USD/bushel. Giá ngô tăng 4 US cent lên 6,41-1/4 USD/bushel, trong khi đậu tương tăng 17 US cent lên 14,72 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2023 đóng cửa tăng 0,09 US cent hay 0,5% lên 19,48 US cent/lb.
Hầu hết các nhà máy tại khu vực mía đường Trung Nam Brazil đã kết thúc vụ ép mía, để lại hàng triệu tấn mía trên cánh đồng sẽ được thu hoạch vào năm tới, do mưa khiến hoạt động thu hoạch khó khăn và kém hiệu quả. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 3 tăng 2,2 USD hay 0,4% lên 537,1 USD/tấn.
Tuy nhiên, giá xăng giảm ở Brazil đã hạn chế đà tăng của đường, khả năng thúc đẩy sử dụng mía để sản xuất đường hơn là ethanol sinh học.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2023 đóng cửa giảm 3,3 US cent hay 2% xuống 1,602 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2023 tăng 2 USD hay 0,1% lên 1.918 USD/tấn.
Các đại lý cho biết dự trữ cà phê arabica của sàn giao dịch tiếp tục tăng. Dự trữ của sàn ICE tính tới ngày 6/12 là 648.648 bao, cao hơn nhiều mức thấp nhất 23 năm tại 382.695 bao thiết lập trong ngày 3/11. Thị trường đang theo dõi chặt chẽ tiến triển vụ thu hoạch tại Việt Nam khi mưa dẫn tới một số lo ngại về chất lượng.
Giá cao su Nhật Bản tăng bởi tâm lý kinh doanh cải thiện và theo xu hướng tăng tại thị trường Thượng Hải. Hợp đồng cao su giao tháng 5/2023 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 3,8 JPY hay 1,7% lên 224,5 JPY (1,63 USD)/kg, cao nhất kể từ ngày 26/10. Tại Thượng Hải cao su giao tháng 1/2023 tăng 15 CNY lên 12.940 CNY (1.854 USD)/tấn.
Niềm tin của các nhà sản xuất lớn Nhật Bản tăng trong tháng 12, tăng lần đầu tiên trong 4 tháng và tâm lý của lĩnh vực dịch vụ đạt cao nhất 3 năm, theo một thăm dò hàng tháng của Reuters.
Hy vọng tăng lên trong những tuần gần đây rằng nhu cầu cao su tại Trung Quốc sẽ cải thiện khi có thêm nhiều thành phố nới lỏng những hạn chế về Covid-19 vốn đã hạn chế hoạt động công nghiệp và tiêu dùng.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
72,76
|
+0,75
|
+1,04%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
77,86
|
+0,69
|
+0,89%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
61.230,00
|
-1.910,00
|
-3,03%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
5,91
|
+0,19
|
+3,30%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
209,06
|
+1,34
|
+0,65%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
279,20
|
+1,15
|
+0,41%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
800,00
|
-8,75
|
-1,08%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
78.500,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.797,90
|
-0,10
|
-0,01%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
1.797,90
|
-0,10
|
-0,01%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
22,94
|
+0,02
|
+0,08%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
98,00
|
+0,80
|
+0,82%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.013,56
|
+6,86
|
+0,68%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.867,58
|
+17,01
|
+0,92%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
386,85
|
+0,80
|
+0,21%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.456,50
|
+35,00
|
+0,42%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.485,50
|
-23,00
|
-0,92%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.183,00
|
+27,00
|
+0,86%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
24.306,00
|
-508,00
|
-2,05%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
643,00
|
+1,75
|
+0,27%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
747,25
|
-2,25
|
-0,30%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
335,25
|
+2,50
|
+0,75%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
16,72
|
+0,01
|
+0,03%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.475,25
|
+3,25
|
+0,22%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
457,00
|
0,00
|
0,00%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
60,45
|
+0,29
|
+0,48%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
854,90
|
+2,50
|
+0,29%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.492,00
|
+5,00
|
+0,20%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
160,20
|
-3,30
|
-2,02%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,48
|
+0,09
|
+0,46%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
218,50
|
+10,00
|
+4,80%
|
Bông
|
US cent/lb
|
83,50
|
+1,67
|
+2,04%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
429,40
|
+14,30
|
+3,44%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
138,10
|
+1,50
|
+1,10%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|