Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do cơ sở hạ tầng dầu mỏ không bị thiệt hại nghiêm trọng sau vụ động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ và Syria, trong khi tồn trữ dầu của Mỹ tăng và các nhà đầu tư lo ngại Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu dầu mỏ.
Kết thúc phiên, giá dầu Brent giảm 0,59 USD, hay 0,7%, xuống 84,50 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 0,41 USD, hay 0,5%, xuống 78,06 USD/thùng. Giá cả hai loại dầu đã tăng hơn 5% trong tuần này.
Trận động đất đã khiến hơn 19.000 người thiệt mạng, ban đầu khiến giá dầu tăng do khả năng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho đường ống dẫn dầu và các cơ sở hạ tầng khác.
John Kilduff, đối tác của Again Capital ở New York, cho biết: “Chúng tôi sẽ không mất nguồn cung lâu như chúng tôi nghĩ”.
BP Azerbaijan hôm thứ ba đã tuyên bố bất khả kháng đối với các chuyến hàng dầu thô của Azeri từ cảng Ceyhan của Thổ Nhĩ Kỳ sau khi trận động đất xảy ra vào đầu ngày thứ Hai. Hôm thứ Năm, , BP Azerbaijan cho biết dầu Azeri tiếp tục chảy qua đó thông qua đường ống.
Một báo cáo việc làm của Mỹ mạnh làm dấy lên lo ngại rằng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ tiếp tục tăng lãi suất tích cực để kiềm chế lạm phát, gây áp lực lên các tài sản rủi ro như dầu và chứng khoán.
Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, dự trữ dầu thô của Mỹ tăng trong tuần trước tăng lên 455,1 triệu thùng, cao nhất kể từ tháng 6/2021, điều đó cũng đẩy giá dầu giảm. Tồn trữ xăng và sản phẩm chưng cất cũng tăng trong tuần trước.
Triển vọng nhu cầu mạnh hơn từ Trung Quốc hỗ trợ một phần giá dầu, do nước tiêu thụ dầu lớn thứ hai thế giới này đã kết thúc hơn 3 năm chính sách zero Covid nghiêm ngặt.
Các nhà phân tích của ANZ cho biết họ dự kiến tiêu thụ dầu của Trung Quốc tăng khoảng 1 triệu thùng/ngày trong năm nay, với tăng trưởng mạnh mẽ xuất hiện sớm nhất là cuối quý 1.
USD yếu đi cũng hạn chế đà giảm của giá dầu thô.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do các nhà đầu tư chuẩn bị cho những đợt tăng lãi suất từ Fed, trong bối cảnh thị trường đang tập trung vào số liệu lạm phát của Mỹ, sẽ công bố vào tuần tới, có thể là một yếu tố quan trọng cho kế hoạch chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương này.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay giảm 0,5% xuống 1.865,60 USD/ounce. Trong phiên, có lúc giá tăng lên 1.890,18 USD sau số liệu về số đơn xin trợ cấp thất nghiệp của Mỹ. Giá vàng kỳ hạn giao sau giảm 0,7% xuống 1.878,5 USD/ounce.
Giá bạc giao ngay phiên này giảm 1,2% xuống 22,06 USD/ounce, bạch kim giảm 1,4% xuống 956,84 USD, trong khi palladium giảm 1,4% xuống 1.626,29 USD.
Phillip Streible, giám đốc chiến lược thị trường của Blue Line Futures ở Chicago, cho biết vàng đang cố gắng phân tích các bình luận của các ngân hàng trung ương và xem chúng ta sẽ thấy bao nhiêu đợt tăng lãi suất nữa.
Một số quan chức Fed hôm thứ Tư cho biết có khả năng Fed sẽ tăng lãi suất nhiều hơn, với Tom Barkin của Richmond Fed nói rằng "điều hợp lý là điều hành thận trọng hơn" khi ngân hàng trung ương Mỹ nghiên cứu tác động của chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế và nếu lạm phát tiếp tục chậm lại .
Thị trường hiện đang xác định mức lãi suất đỉnh điểm của Fed sẽ là khoảng 5,1% vào tháng 7, cao hơn khoảng 25 điểm cơ bản so với dự đoán hồi tuần trước.
Giá vàng cực kỳ nhạy cảm với việc tăng lãi suất của Mỹ, vì những điều này làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ tài sản không sinh lãi như vàng.
Chỉ số Dollar index giảm 0,6%. Đồng bạc xanh yếu đi có xu hướng khiến vàng thỏi được định giá bằng đô la trở nên hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm vững giá gây áp lực lên vàng.
Edward Moya, nhà phân tích thị trường cao cấp của OANDA, cho biết: “Tôi dự đoán rằng trong một tuần tới kể từ Ngày lễ tình nhân, thị trường sẽ không còn hứng thú nữa”.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng phục hồi do USD giảm và thịt rường dự đoán nhu cầu kim loại của Trung Quốc sẽ phục hồi sau khi nước này dỡ bỏ các biện pháp kiểm soát Covid-19.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London tăng 1,1% lên 8.986 USD/tấn sau khi giảm 0,4% trong phiên liền trước, chạm mức thấp nhất 4 tuần trong ngày 6/2. Giá đồng trên sàn Comex tăng 1,1% lên 4,08 USD/lb.
Hỗ trợ giá kim loại là chỉ số USD giảm do nhận định lạm phát đã lên tới đỉnh điểm và Cục Dự trữ Liên bang sẽ có thể giảm tốc độ tăng lãi suất. Chủ tịch Fed Richmond Thomas Barkin cho biết hôm thứ Năm rằng nền kinh tế Mỹ suy yếu khiến Fed hành động "có chủ ý hơn" với bất kỳ đợt tăng lãi suất nào nữa. Hy vọng nhu cầu mạnh lên tại Trung Quốc, nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới cũng hỗ trợ giá.
Dan Smith, người phụ trách bộ phận nghiên cứu của Amalgamated Metal Trading, cho biết: “Sự phục hồi sau Tết Nguyên đán chắc chắn là yếu, nhưng nhìn chung tôi vẫn lạc quan về giá đồng trong vài tuần tới”. "Khi bạn nghĩ về câu chuyện vĩ mô của Trung Quốc và sự phục hồi sau COVID và Tết Nguyên đán, bạn cần xem giá sẽ ở đâu vào cuối tháng."
Ông Smith cho biết thêm, trong 20 năm qua, tháng 2 luôn là tháng giá đồng tăng mạnh.
Các nhà kinh tế được Reuters khảo sát dự báo rằng các khoản cho vay bằng đồng nhân dân tệ của các ngân hàng Trung Quốc đã tăng lên mức cao kỷ lục trong tháng 1 khi ngân hàng trung ương chuyển sang thúc đẩy tăng trưởng trong nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.
Trong số các kim loại khác, giá nhôm tăng 0,8% lên 2.500 USD/tấn, niken tăng 5,6% lên 28.910 USD, kẽm tăng 0,2% lên 3.138 USD, chì tăng 0,4% lên 2.128,50 USD và thiếc tăng 0,9% lên 27.870 USD.
Giá quặng sắt phiên này tăng lên mức nhất một tuần sau hai ngày sụt giảm do tâm lý lạc quan trở lại trước khi công bố số liệu cho vay của Trung Quốc, một chỉ số quan trọng về hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Dự báo tăng trưởng tăng đối với Trung Quốc, nhà sản xuất thép và tiêu thụ quặng sắt hàng đầu thế giới cũng hỗ trợ tâm lý.
Cơ quan xếp hạng Fitch đã điều chỉnh dự báo tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong năm 2023 lên 5,0% từ 4,1% trước đó do tiêu dùng và các hoạt động khác đang phục hồi nhanh hơn dự kiến ban đầu sau khi kết thúc các biện pháp chống Covid-19.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 5 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc kết thúc phiên tăng 2,6% lên 863 CNY (127,19 USD)/tấn. Trước đó, giá có lúc tăng 3% lên 866 CNY, cao nhất kể từ ngày 2/2. Tại Singapore, hợp đồng quặng sắt giao tháng 3 tăng 1,6% lên 123,3 USD/tấn.
Tại Thượng Hải giá thép thanh tăng 1,6%, thép cuộn cán nóng tăng 1,8% và thép không gỉ giảm 0,4%.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương, ngô và lúa mì Mỹ kỳ hạn tương lai giảm trong bối cảnh thị trường chờ đợi tin tức chính xác về quy mô sản lượng các loại cây trồng ở Nam Mỹ. Cả ba mặt hàng đều dao động giữa vùng tích cực và tiêu cực trong suốt phiên giao dịch.
Kết thúc phiên, giá đậu tương kỳ hạn tháng 3 trên sànThương mại Chicago giảm 2-3/4 cent xuống còn 15,17 USD/bushel; giá ngô kỳ hạn tháng 3 giảm 6 cent ở mức 6,72-1/2 USD/bushel, giá lúa mì đỏ mềm vụ đông kỳ hạn tháng giảm 7,5 cent xuống 7,57-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3 kết thúc phiên tăng 0,25 US cent hay 1,2% lên 21,45 US cent/lb, hướng trở lại mức cao nhất 6 năm, là 21,86 US cent đã đạt được trong tuần trước; đường trắng kỳ hạn tháng 3 tăng 3,4 USD hay 0,6% lên 572,3 USD/tấn.
Thị trường được hỗ trợ bởi các quỹ mua mới sau khi tìm thấy hỗ trợ vững chắc ở mức 20,50 US cent trong ngày 7/2. Nguồn cung khan kiếm - dự kiến kéo dài cho tới vụ thu hoạch tới tại khu vực trung nam của Brazil - sẽ tăng cường vào khoảng tháng 4 tiếp tục hỗ trợ giá.
Tại Pháp, Bộ trưởng Nông nghiệp Marc Fesneau và các hiệp hội mía đường hôm thứ Năm công bố một thỏa thuận, theo đó nhà nước sẽ đền bù thiệt hại cho nông dân trong trường hợp virus vàng củ cải đường tấn công trong năm nay. Động thái này nhằm ngăn chặn nông dân quay lưng lại với vụ mùa sau phán quyết của tòa án EU cấm Pháp cho phép họ sử dụng thuốc trừ sâu bị EU cấm
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5 đóng cửa giảm 1,95 US cent hay 1,1% xuống 1,737 USD/lb, tiếp tục giảm từ mức cao nhất 3 tháng thiết lập trong tuần trước. Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 5 giảm 25 USD hay 1,2% xuống 2.032 USD/tấn.
Tuy nhiên, Fitch Solutions cho biết nguồn cung trong phần còn lại năm 2023 dự kiến bị khan hiếm hơn dự kiến trước đây do triển vọng sản lượng của Brazil giảm trong năm nay và nhu cầu phục hồi.
Brazil đã xuất 2,53 triệu bao (60 kg/bao) cà phê trong tháng 1, ít hơn 18,5% so với cùng tháng năm trước đó.
Một thăm dò của Reuters cho thấy sản lượng cà phê của Brazil năm nay ở mức 67,1 triệu bao, thấp hơn đáng kể so với mức 71 triệu bao trong một thăm dò phát hành vào tháng 7/2022.
Tại châu Á, giá cà phê Việt Nam tăng nhẹ trong tuần này do nhu cầu cà phê robusta tăng khi nông dân ở đây vẫn không vội bán còn Indonesia chưa đến vụ.
Tại Tây Nguyên cà phê nhân xô được bán ở mức 42.400 – 44.000 đồng/kg, tăng từ 41.900 – 43.700 đồng một tuần trước.
Một số khách hàng ở Indonesia quay sang tìm mua ở Việt Nam trong khi nông dân bán với số lượng không lớn.
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong tháng 1 ở mức 142.544 tấn, giảm 27,7% so với tháng liền trước. Kim ngạch xuất khẩu đạt 310 triệu USD, giảm 27% so với tháng 12/2022.
Tại tỉnh Lampung, Indonesia, cà phê được chào bán với mức cộng 110 USD so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3 trên sàn ICE, không đổi so với một tuần trước.
Vụ cà phê chính tại khu vực miền nam đào Sumatra thường vào giữa năm nhưng một số khu vực có thể bắt đầu sản xuất cà phê từ tháng 4 tới tháng 5.
Giá cao su Nhật Bản tăng do lợi nhuận quý 3/2022 của các nhà sản xuất ô tô hàng đầu trong nước tăng. Theo đó, cao su kỳ hạn tháng 7 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 1,3 JPY hay 0,6% lên 227,4 JPY (1,73 USD)/kg.Tại Thượng Hải giá cao su giao tháng 5 giảm 15 CNY xuống 12.645 CNY (1.864 USD)/tấn. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 3 trên nền tảng SICOM của Sở giao dịch Singapore giao tháng 3 không đổi lần cuối ở mức 138,9 US cent/kg.
Tập đoàn ô tô Toyota công bố lợi nhuận trong quý 3/2022 bất ngờ tăng 22%, do đồng JPY yếu và khối lượng bán tăng. Tập đoàn ô tô Nissan có lợi nhuận tăng 155,2% trong quý 3/2022, vượt ước tính của giới phân tích.
Giá hàng hóa thế giới: 

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

77,66

-0,40

-0,51%

Dầu Brent

USD/thùng

84,18

-0,32

-0,38%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

64.210,00

-490,00

-0,76%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,46

+0,03

+1,23%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

243,88

-0,87

-0,36%

Dầu đốt

US cent/gallon

281,56

+0,02

+0,01%

Dầu khí

USD/tấn

814,00

-22,00

-2,63%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

75.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.871,10

-7,40

-0,39%

Vàng TOCOM

JPY/g

7.885,00

-37,00

-0,47%

Bạc New York

USD/ounce

21,96

-0,18

-0,83%

Bạc TOCOM

JPY/g

92,90

-1,30

-1,38%

Bạch kim

USD/ounce

956,08

-2,47

-0,26%

Palađi

USD/ounce

1.639,78

+6,54

+0,40%

Đồng New York

US cent/lb

405,85

-3,85

-0,94%

Đồng LME

USD/tấn

8.983,00

+90,50

+1,02%

Nhôm LME

USD/tấn

2.499,00

+18,00

+0,73%

Kẽm LME

USD/tấn

3.123,00

-9,00

-0,29%

Thiếc LME

USD/tấn

27.745,00

+126,00

+0,46%

Ngô

US cent/bushel

669,50

-1,25

-0,19%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

755,75

-1,50

-0,20%

Lúa mạch

US cent/bushel

381,00

-5,50

-1,42%

Gạo thô

USD/cwt

18,03

-0,08

-0,47%

Đậu tương

US cent/bushel

1.517,00

-2,25

-0,15%

Khô đậu tương

USD/tấn

476,00

-2,00

-0,42%

Dầu đậu tương

US cent/lb

59,14

-0,03

-0,05%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

825,30

+2,10

+0,26%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.618,00

+5,00

+0,19%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

173,70

-1,95

-1,11%

Đường thô

US cent/lb

20,01

+0,14

+0,70%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

262,55

+5,60

+2,18%

Bông

US cent/lb

85,94

-0,06

-0,07%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

433,60

-20,50

-4,51%

Cao su TOCOM

JPY/kg

140,40

-0,10

-0,07%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)