Năng lượng: Giá dầu giảm mạnh
Phiên cuối tháng, ngày 31/8, giá dầu giảm do lo ngại kinh tế toàn cầu sẽ giảm tốc hơn nữa do những biện pháp hạn chế mới chống COVID-19 ở Trung Quốc.
Kết thúc phiên này, giá dầu Brent kỳ hạn tháng 10 ở mức 96,49 USD, giảm 2,82 USD/thùng, tương đương 2,8%, so với phiên liền trước. Hợp đồng dầu Brent kỳ hạn tháng 11 – giao dịch nhiều hơn – giảm 2,20 USD xuống 95,64 USD/thùng. Giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 2,09 USD, tương đương 2,3%, ở mức 89,55 USD/thùng.
Tính chung trong tuần qua, giá dầu giảm khoảng 6%, trong khi so với một tháng trước, giá hiện thấp hơn khoảng 2%.
Harry Altham, nhà phân tích năng lượng của EMEA & Châu Á thuộc StoneX Group ở
London, cho biết: “Sự suy yếu xuất phát từ Trung Quốc đã đóng một vai trò quan trọng” trong việc giảm giá dầu. "Có những lo ngại về sự phá hủy nhu cầu trên khắp phương Tây khi lãi suất tăng và lo ngại lạm phát đang kìm hãm các nền kinh tế phương Tây."
Cả OPEC và Mỹ đều chứng kiến sản lượng đạt mức cao nhất kể từ những ngày đầu của đại dịch Covid-19, với sản lượng của OPEC đạt 29,6 triệu thùng/ngày (bpd) trong tháng gần đây nhất, theo khảo sát của Reuters, trong khi sản lượng của Mỹ tăng lên 11,82 triệu thùng/ngày trong tháng 6. Cả hai đều ở mức cao nhất kể từ tháng 4 năm 2020.
Ủy ban kỹ thuật hỗn hợp của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh, có tên gọi là OPEC +, cho biết họ hiện dự báo thị trường thế giới năm nay sẽ dư thừa 400.000 thùng/ngày, tăng 100.000 thùng/ngày so với dự báo một tháng trước đó.
Một số thành viên OPEC + đã kêu gọi cắt giảm sản lượng. Nhóm này sẽ nhóm họp vào ngày 5 tháng 9 trong bối cảnh nhu cầu suy yếu ở châu Á đã thúc đẩy Ả Rập Saudi giảm giá bán chính thức của mình cho khu vực này.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho biết dự trữ dầu thô của Mỹ giảm 3,3 triệu thùng vào hôm thứ Tư, trong khi dự trữ xăng giảm 1,2 triệu thùng.
Hoạt động của các nhà máy ở Trung Quốc trong tháng 8 tiếp tục giảm do sự lây lan của dịch COVID kết hợp với đợt nắng nóng tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ và lĩnh vực bất động sản bị ảnh hưởng nặng nề lên sản xuất, cho thấy nền kinh tế sẽ phải vật lộn để duy trì động lực.
Các khu vực của thành phố Quảng Châu, phía nam Trung Quốc, đã áp đặt các biện pháp hạn chế chống Covid-19.
Kim loại quý: Giá vàng giảm
Giá vàng giảm trong phiên 31/8 và tính chung cả tháng cũng giảm chuỗi dài nhất kể từ 2018 do áp lực từ các đợt tăng lãi suất mạnh mẽ của các ngân hàng trung ương trên thế giới.
Giá vàng giao ngay kết thúc phiên giảm 0,6% xuống 1.712,56 USD/ounce. Trong tháng 8, giá vàng giao ngay đã giảm khoảng 3% và là tháng giảm thứ 5 liên tiếp.
Giá vàng kỳ hạn tháng 12 phiên này cũng giảm 0,6% ở mức 1.726,2 USD.
Edward Moya, nhà phân tích cấp cao của OANDA, cho biết ngày càng chắc chắn rằng các ngân hàng trung ương sẽ mạnh tay với việc thắt chặt tiền tệ do áp lực lạm phát chưa từng có, điều này không tốt cho vàng.
Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Loretta Mester cho biết ngân hàng trung ương nước này sẽ cần tăng lãi suất lên trên 4% vào đầu năm tới.
Trong khi đó, lạm phát ở khu vực đồng Euro đã tăng lên mức cao kỷ lục mới và sắp tăng 2 con số, báo trước một chuỗi những đợt tăng lãi suất lớn.
Vàng được biết đến như một khoản đầu tư an toàn trong thời kỳ khủng hoảng địa chính trị và kinh tế, nhưng môi trường lãi suất cao khiến tài sản không sinh lãi này trở nên kém hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 2,6% xuống 18,00 USD/ounce, tính chung trong tháng 8 giá giảm 11%, mức giảm lớn nhất kể từ tháng 9 năm 2020; giá bạch kim giảm 0,6% xuống 842,30 USD, palladium giảm 0,7% xuống 2.072,53 USD.
Theo ông Moya của OANDA, hoạt động của các nhà máy của Trung Quốc trong những tháng tới sẽ là chìa khóa cho nhu cầu kim loại công nghiệp.
Kim loại công nghiệp: Giá nhất loạt giảm mạnh
Giá đồng trong phiên cuối tháng chịu áp lực giảm do USD mạnh lên và lo ngại về nhu cầu tại nước tiêu thụ hàng đầu thế giới – Trung Quốc – sau các dữ liệu cho thấy hoạt động trì trệ tại các nhà máy nước này.
Kết thúc phiên này, giá đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London giảm 0,4% xuống 7.829 USD/tấn, kéo dài mức giảm lên 6% kể từ thứ Sáu (26/8) khi giá chạm mức cao nhất trong hai tháng, là 8.318 USD/tấn. Tính chung trong tháng 8, giá vàng giảm tháng thứ 5 liên tiếp.
Lĩnh vực sản xuất của Trung Quốc giảm tháng thứ hai liên tiếp trong tháng 8 do số ca nhiễm Covid-19 tăng, đợt nắng nóng tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ và lĩnh vực bất động sản bị ảnh hưởng nặng nề lên sản xuất, cho thấy nền kinh tế đang vật lộn để duy trì động lực.
Một yếu tố cũng gây tác động tiêu cực lên thị trường kim loại công nghiệp là đồng USD giao dịch gần mức cao nhất trong hai thập kỷ so với các đồng tiền chính khác sau các bình luận của Cục Dự trữ Liên Mỹ làm gia tăng dự đoán về việc tăng lãi suất mạnh mẽ hơn nữa. Đồng tiền Mỹ mạnh hơn khiến kim loại định giá bằng đô la trở nên đắt hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác, điều này có thể làm giảm nhu cầu.
Giá nhôm phiên này cũng giảm xuống mức thấp nhất trong 6 tuần, là 2.339 USD/tấn, do kỳ vọng nguồn cung tăng từ nhà sản xuất và tiêu dùng hàng đầu thế giới - Trung Quốc - sau khi tỉnh Tứ Xuyên nối lại cung cấp điện cho các cơ sở công nghiệp. Tuy nhiên, các nhà giao dịch cho rằng cuộc khủng hoảng điện ở châu Âu có thể dẫn đến việc cắt giảm thêm sản xuất nhôm – kim loại sử dụng nhiều năng lượng – từ đó hỗ trợ cho giá mặt hàng này.
Giá nhôm kết thúc phiên 31/8 giảm 0,9% xuống 2.370 USD. Giá kẽm phiên này giảm 0,6% xuống 3.462 USD, chì giảm 1,4% xuống 1.959 USD, thiếc giảm 3,2% xuống 22.895 USD và niken ít thay đổi ở mức 21.365 USD/tấn.
Giá quặng sắt Trung Quốc giảm trong phiên vừa qua, tính chung cả tháng 8 giảm tháng thứ 3 liên tiếp, sau khi một cuộc khảo sát cho t hấy hoạt động tại các nhà máy Trung Quốc giảm làm dấy lên nghi ngờ về sự phục hồi kinh tế ở nhà sản xuất và tiêu thụ thép hàng đầu thế giới này.
Hợp đồng quặng sắt được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch Hàng hóa Đại Liên (Trung Quốc), giao tháng 1/2023, giảm phiên thứ 3 liên tiếp khi mất 1,7%, xuống mức 685 nhân dân tệ (99,35 USD)/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, gí thép cây giảm 0,4%, nhưng thép cuộn cán nóng tăng 0,1% và thép không gỉ tăng 2,2%.
Trên Sàn giao dịch Singapore, hợp đồng giao tháng 10 – giao dịch tích cực nhất - cũng giảm lúc đầu phiên nhưng đảo chiều tăng vào cuối phiên, kết thúc ở mức tăng 1% lên 98,30 USD/tấn. Tính chung cả tháng 8 giá cũng giảm.
Raymond Yeung, nhà kinh tế trưởng ANZ của Greater China, cho biết: "Sự yếu kém của kinh tế Trung Quốc ngày càng ảnh hưởng đến do nhu cầu. Tâm lý tiêu dùng và đầu tư giữa các hộ gia đình và doanh nghiệp yếu, làm tăng nguy cơ xảy ra vòng xoáy giảm phát".
Nông sản: Lúa mì và ngô tăng, các nông sản khác giảm
Phiên giao dịch 31/8, giá ngô giảm nhưng tính chung cả tháng vẫn tăng, trong khi giá đậu tương giảm và lúa mì tăng.
Cụ thể, giá ngô hôm 31/8 Mỹ giảm phiên thứ hai liên tiếp do hoạt động bán chốt lời vào cuối tháng và gia tăng lo lắng về suy thoái, nhưng thị trường vẫn tăng 8% trong tháng 8 do triển vọng vụ mùa ở Mỹ và châu Âu không thuận lợi.
Giá đậu tương cũng giảm trong phiên này, song giá lúa mì tăng do hoạt động mua mang tính kỹ thuật và lo ngại về việc xuất khẩu lúa mì của Ukraine bị ảnh hưởng bởi chiến tranh khi các kho chữa ngũ cốc ở cảng lớn thứ 2 của nước này mới đây bị pháo kích.
Giá ngô kỳ hạn tháng 12 trên sàn Chicago giảm 6-3/4 cent xuống mức 6,70-1/2 USD/bushel; đậu tương kỳ hạn tháng 11 giảm 10 cent xuống ở mức 14,22-1/2 USD/bushel, trong khi CBOT lúa mỳ kỳ hạn tháng 12 tăng 11-1/4 cent ở mức 8,31-1/2 USD/bushel.
Tính chung tháng 8, giá ngô tăng 8%, lúa mì cũng tăng, trong khi đậu tương giảm.
Giá đường thô kỳ hạn giao tháng trên sàn New York giảm 0,21 cent, tương đương 1,2% xuống 17,89 cent/lb do triển vọng kinh tế toàn cầu ảm đạm gây áp lực lên giá; đường trắng kỳ hạn tháng 10 tăng 2,30 USD, tương đương 0,4%, lên 550,80 USD/tấn và tăng 4,48% trong tháng 8.
Các đại lý đang chờ thông báo từ Ấn Độ về chính sách xuất khẩu đường 2022/23, với nhiều người kỳ vọng rằng điều đó sẽ mở đường cho 5 triệu tấn xuất khẩu ban đầu. Các thương nhân Ấn Độ đã ký một số thỏa thuận giao dịch.
Tổ chức Đường Quốc tế dự báo thặng dư đường trong năm 2022/23 và các nhà phân tích Gamaya thấy vụ mùa của Brazil phục hồi trong nửa cuối năm.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 trên sàn ICE ít thay đổi trong phiên cuối tháng, chỉ tăng 0,05% lên 2,3525 USD/lb. Hợp đồng này chạm mức cao nhất trong sáu tháng là 2,4295 USD vào tuần trước và kết thúc tháng 8 với mức tăng 10% trong bối cảnh lo ngại về sản lượng.
Giá cà phê robusta giao tháng 11 giảm 11 USD, tương đương 0,5%, xuống 2.250 USD/tấn, nhưng kết thúc tháng với mức tăng 11%.
Thị trường tiếp tục theo dõi chặt chẽ triển vọng thời tiết tại các vùng trồng cà phê ở Brazil trong bối cảnh lo ngại có thể không đủ độ ẩm để duy trì sự phát triển của chồi và quả cà phê sau khi ra hoa sớm.
Giá cao su kỳ hạn trên thị trường Nhật Bản giảm theo xu hướng giá ở Thượng hải sau dữ liệu cho thấy hoạt động của các nhà máy ở Trung Quốc yếu đi, nhưng tâm lý tích cực đối với dữ liệu trong nước cho thấy tăng trưởng sản lượng của nhà máy đã hạn chế mức giảm.
Hợp đồng cao su giao tháng 2 tại Sở giao dịch Osaka giảm 0,3 yên, tương đương 0,1%, xuống 226,1 yên (1,63 USD)/kg. Hợp đồng cao su giao tháng 1 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 105 nhân dân tệ xuống 12.565 nhân dân tệ (1.822 USD)/tấn; cao su kỳ hạn tháng 9 trên sàn Singapore tăng 0,2% lên 137,9 US cent/kg.
Các nhà máy của Nhật Bản đã mở rộng sản lượng sang tháng thứ hai trong tháng 7 khi sản xuất xe có động cơ được cải thiện, đánh dấu một khởi đầu tích cực cho quý thứ ba đối với các nhà sản xuất và hoạt động kinh tế nói chung.
Tuy nhiên, tâm lý nhà đầu tư bị ảnh hưởng bởi những dấu hiệu suy yếu mới của nước nhập khẩu cao su hàng đầu thế giới - Trung Quốc – khi dịch Covid-19 bùng phát trở lại và các đợt nắng nóng làm gián đoạn hoạt động sản xuất ở một số tỉnh, trong bối cảnh nước này đang trải qua cuộc khủng hoảng bất động sản.
Sản lượng cao su tại nước xuất khẩu hàng đầu thế giới- Thái Lan - có thể bị ảnh hưởng bởi dự báo về mưa lớn tiếp tục bị cô lập và cảnh báo lũ lụt trên khắp cả nước, bao gồm cả các tỉnh trồng cao su truyền thống phía Nam.
Giá hàng hóa thế giới

 

 

 

Giá 31/8

So với 30/8

So 1 tuần

So 1 tháng

So 1 năm

Dầu thô

USD/Bbl

87,265

0,76%

-6,23%

-2,76%

25,94%

Dầu Brent

USD/Bbl

93,443

1,17%

-5,62%

-1,85%

28,69%

Khí tự nhiên

USD/MMBtu

8,8854

-4,07%

-4,42%

7,49%

88,57%

Xăng

USD/Gal

2,4614

3,19%

-8,07%

-7,62%

14,27%

Than đá

USD/T

435,00

1,79%

4,19%

7,81%

145,07%

Vàng

USD/t.oz

1711,39

0,90%

-1,47%

-3,03%

-6,29%

Bạc

USD/t.oz

18,014

0,92%

-4,59%

-10,10%

-27,04%

Đồng

USD/Lbs

3,4143

-0,01%

-7,65%

-1,65%

-21,07%

Thép

CNY/T

3797,00

-2,67%

-6,84%

-6,50%

-28,39%

Quặng sắt

USD/T

98,00

-1,01%

-9,68%

-16,24%

-31,71%

Đậu tương

USd/Bu

1518,50

3,11%

-5,40%

8,17%

18,49%

Lúa mì

USd/Bu

795,17

2,54%

1,33%

4,11%

11,29%

Cao su

USD Cents/Kg

133,30

0,00%

-7,30%

-12,36%

-18,97%

Cà phê

USd/Lbs

232,65

-1,67%

-4,26%

8,39%

21,90%

Đường

USd/Lbs

18,15

0,89%

-1,73%

2,14%

-7,49%

Ngô

USd/BU

669,5890

1,72%

0,13%

13,20%

31,81%

Nhôm

USD/T

2295,50

0,02%

-7,94%

-3,47%

-15,51%

Thiếc

USD/T

21155

0,45%

-14,53%

-12,74%

-36,59%

Kẽm

USD/T

3135,50

-3,80%

-12,06%

-4,32%

4,46%

Nickel

USD/T

20476

1,12%

-4,94%

-8,08%

3,26%

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)