Năng lượng: Giá dầu tăng hơn 8% trong tuần
Giá dầu tăng hơn 2% trong phiên cuối tuần, tính chung cả tuần tăng hơn 8%, do Nga thông báo kế hoạch giảm sản lượng trong tháng tới sau khi phương Tây áp đặt giá trần với dầu thô và nhiên liệu của nước này.
Kết thúc phiên này, giá dầu Brent tăng 1,89 USD, hay 2,2%, lên 86,39 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 1,66 USD, hay 2,1%, lên 79,72 USD/thùng. Tính chung cả tuần, giá Brent tăng 8,1% trong khi WTI tăng 8,6%.
Trong một tuyên bố hôm thứ Sáu, Phó Thủ tướng Nga Alexander Novak cho biết, mức giá trần do các chính phủ phương Tây áp đặt là "sự can thiệp vào quan hệ thị trường và tiếp tục chính sách năng lượng mang tính hủy diệt của những quốc gia này".
Các quốc gia phương Tây đã áp đặt giá trần cố gắng làm giảm doanh thu dầu mỏ của Nga. Việc cắt giảm sản lượng cho thấy mức giá trần gần đây của Liên minh Châu Âu và lệnh cấm sản phẩm dầu mỏ của Nga có hiệu lực vào ngày 5/2 đã có một số ảnh hưởng.
Sản lượng của Nga năm 2022 sụt giảm, không như dự đoán, nhưng việc bán dầu trong năm nay sẽ khó khăn hơn khi đối mặt với những lệnh trừng phạt mới. OPEC+ không có kế hoạch hành động sau khi Nga tuyên bố cắt giảm sản lượng dầu.
Andrew Lipow, chủ tịch Hiệp hội Dầu mỏ Lipow cho biết “trong ngắn hạn, việc cắt giảm sản lượng của Nga không có tác động nhiều khi lịch trình bảo dưỡng nhà máy lọc dầu làm giảm nhu cầu hiện nay, nhưng trong tương lai và nhu cầu dầu thế giới tiếp tục phục hồi sẽ làm trầm trọng tình trạng thiếu hụt nguồn cung”.
Những lo ngại về kinh tế vẫn gây áp lực lên giá, với số liệu nhu cầu yếu từ Trung Quốc và lo sợ suy thoái ở Mỹ. Cũng hạn chế đà tăng là số đơn xin trợ cấp thất nghiệp hàng tuần của Mỹ tăng và dự trữ dầu nhiều hơn.
Báo cáo của Goldman Sachs nhận định việc nhu cầu của Trung Quốc dự kiến tăng 1,1 triệu thùng/ngày trong năm nay sẽ đẩy thị trường dầu mỏ trở lại tình trạng thâm hụt vào tháng Sáu tới, phơi bày tình trạng đầu tư dưới mức cơ cấu, đẩy giá lên và khiến OPEC đảo ngược quyết định cắt giảm sản lượng đưa ra hồi tháng 11/2022 vào nửa cuối năm 2023.
Tuy nhiên, Goldman Sachs đã hạ dự báo giá dầu Brent giao ngay cho năm 2023 từ 98 USD/thùng xuống 92 USD/thùng. Ngân hàng cũng điều chỉnh ước tính cho năm 2024 từ 105 USD/thùng xuống 100 USD/thùng.
Đối với dầu WTI, Goldman Sachs cũng cắt giảm dự báo giá loại dầu này trong năm nay từ 92 USD/thùng xuống còn 86 USD/thùng và cho năm 2024 tưừ 99 USD/thùng xuống còn 94 USD/thùng.
Các quan chức tại các quốc gia OPEC cho biết giá dầu có thể tiếp tục tăng trong năm 2023 do nhu cầu của Trung Quốc phục hồi sau khi những hạn chế về Covid-19 được dỡ bỏ và việc thiếu đầu tư hạn chế sự gia tăng nguồn cung, ngày càng nhiều người dự báo giá dầu có thể quay lại mức 100 USD/thùng.
Về nguồn cung của Mỹ, công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes cho biết các công ty năng lượng Mỹ cắt giảm số giàn khoan khí nhiều nhất trong một tuần kể từ tháng 10/2017, trong khi bổ sung thêm số giàn khoan dầu trong một tuần nhiều nhất kể từ tháng 6/2022.
Kim loại quý: Giá vàng tăng trong tuần
Giá vàng giao ngay tăng trong phiên cuối tuần khi thị trường đợi dữ liệu lạm phát của Mỹ có manh mối về xu hướng chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,2% lên 1.864,1 USD/ounce; vàng giao sau giảm 0,2% xuống 1.874,5 USD/ounce.
Cũng trong phiên này, giá bạc giao ngay tăng 0,3% lên 22,05 USD/ounce, nhưng hướng tới tuần giảm thứ tư liên tiếp, trong khi giá palladium giảm 5,4% xuống 1.541,05 USD/ounce. Giá bạch kim giảm 0,9% xuống còn 945,42 USD/ounce và ghi nhận tuần giảm thứ năm liên tiếp.
Các nhà đầu tư đợi số liệu giá tiêu dùng của Mỹ công bố vào ngày 14/2. Trong khi thị trường vẫn lo ngại về suy thoái toàn cầu, việc giá tăng mạnh trên các thị trường khác ở khắp thế giới cho thấy sự lạc quan đang quay trở lại, có thể làm giảm chu kỳ tăng lãi suất của Fed.
Chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ sau điều chỉnh tăng 0,1% trong tháng 12/2022, thay vì giảm 0,1% như đã báo cáo vào tháng trước.
Bart Melek, người đứng đầu bộ phận chiến lược thị trường hàng hóa của TD Securities, cho biết: "Chúng ta sẽ phải chứng kiến sự tiến bộ đáng kể và bền vững trên mặt trận lạm phát trước khi các nhà chức trách cảm thấy thoải mái khi cho phép hạ lãi suất".
Chỉ số đồng USD hướng tới mức tăng 0,7% trong cả tuần qua. Ngoài ra, lợi suất trái phiếu chuẩn đạt mức cao nhất trong hơn một tháng. Vàng được xem như một dụng cụ chống lại lạm phát, nhưng lãi suất tăng có xu hướng làm tăng chi phí giữ vàng.
Thị trường hiện dự đoán mức lãi suất cao nhất của Fed sẽ là khoảng 5,15% vào tháng Bảy năm nay.
Michael Hewson, Trưởng bộ phận phân tích thị trường của CMC Markets, cho biết: "Báo cáo CPI của Mỹ vào tuần tới có thể đóng một vai trò quan trọng trong hướng đi của giá vàng trong thời gian tới.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm tuần thứ 3 liên tiếp
Giá đồng theo hướng giảm tuần thứ ba liên tiếp do nhu cầu của Trung Quốc vẫn yếu và các nhà đầu tư chờ đợi số liệu lạm phát của Mỹ có thể cho manh mối về chiều hướng chính sách tiền tệ của nước này.
Kết thúc phiên, giá đồng giao sau ba tháng trên sàn giao dịch kim loại London giảm 1,5% xuống 8.851 USD/tấn và cũng giảm khoảng 1,5% trong tuần này. Giá kim loại này vẫn tăng 15% kể từ đầu tháng 11/2022. Giá kim loại này đã đạt cao nhất 7 tháng, là 9.550,5 USD/tấn trong tháng 1 do các nhà đầu cơ đặt cược rằng nền kinh tế Trung Quốc sẽ hồi sinh và Mỹ sẽ không tăng tiếp lãi suất, loại bỏ lực cản đối với tăng trưởng kinh tế và khiến USD suy yếu.
Nhưng số liệu việc làm của Mỹ mạnh trong tuần trước làm dấy lên lo sợ lãi suất tăng tiếp và USD mạnh lên.
Nhu cầu của Trung Quốc có thể chưa phục hồi cho tới quý 2, làm tăng nguy cơ giảm giá trong ngắn hạn. Tết Nguyên đán thường là giai đoạn nhu cầu yếu ở Trung Quốc và tồn kho đồng tại sàn Thượng Hải có xu hướng tăng mạnh, đạt đỉnh vào tháng 3.
Tuy nhiên, dự trữ đồng tại các kho ngoại quan của Trung Quốc ở mức 129.300 tấn, thấp hơn nhiều mức thông thường và dự trữ tại kho LME là 63.100 tấn, thấp nhất kể từ năm 2005.
Về các kim loại khác, giá nhôm giảm 1,8% xuống 2.448 USD/tấn, kẽm giảm 3% xuống 3.030,50 USD, niken giảm 4,8% xuống 27.735 USD, chì iảm 1,9% xuống 2.085 USD và thiếc giảm 1,2% xuống 27.410 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên ngày 10/2 tăng trong một phiên giao dịch biến động, trong khi quặng sắt tại Singapore giảm, do các nhà đầu tư giảm lạc quan về triển vọng nhu cầu.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 5 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc đóng cửa tăng 0,8 CNY lên 863,5 CNY (126,98 USD)/tấn, đảo lại chiều giảm ban đầu. Tính chung cả tuần giá tăng 1,7%. Tại Singapore, hợp đồng kỳ hạn tháng 3 giảm 0,1% xuống 123,9 USD/tấn và ghi nhận tuần thứ hai giảm giá liên tiếp. Giá thép thanh tại Thượng Hải giảm 0,1%, thép cuộn cán nóng giảm 0,2%, thép không gỉ giảm 0,9%.
Lợi nhuận thép đang cải thiện tại Trung Quốc, nhà sản xuất vật liệu xây dựng và sản xuất lớn nhất thế giới đã hỗ trợ giá quặng sắt trong tuần này.
Tuy nhiên, dự trữ quặng sắt tại các cảng của Trung Quốc đang tăng có thể hạn chế giá quặng sắt tăng tiếp, do các nhà phân tích cho biết giá hiện nay đã phản ánh triển vọng nhu cầu mạnh khi Trung Quốc mở cửa trở lại và đưa ra các biện pháp hỗ trợ các nhà phát triển bất động sản.
Dự trữ quặng sắt tại các cảng của Trung Quốc tăng lên 136,5 triệu tấn trong tuần trước, cao nhất kể từ tháng 12/2022, theo số liệu của SteelHome.
Nông sản: Giá đường và cà phê tăng
Giá lúa mì Mỹ tăng trong phiên cuối tuần do lo ngại thỏa thuận cho phép xuất khẩu ngũ cốc của Nga và Ukraine từ các cảng Biển Đen có thể đổ vỡ trong bối cảnh cuộc xung đột kéo dài gần một năm giữa hai nước leo thang. Giá ngô và đậu tương cũng tăng, ngô tăng theo lúa mì và đậu tương được hỗ trợ bởi lo ngại về hạn hán ở Argentina.
Kết thúc phiên cuối tuần, giá lúa mì CBOT mềm đỏ vụ đông tăng 28-3/4 US cent lên 7,86 USD/bushel; đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 3 tăng 23-1/4 US cent lên 15,42-1/2 USD/bushel; trong khi ngô giao cùng kỳ hạn tăng 9-3/4 US cent lên 6,80-1/2 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3 lúc đóng cửa phiên 10/2 tăng 0,13 US cent hay 0,6% lên 21,58 US cent/lb. Trong phiên hợp đồng này đã tăng lên mức cao nhất 6 năm, là 21,89 US cent; tính chung cả tuần giá tăng khoảng 1,6%. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 3 giảm 1,5 USD hay 0,3% xuống 570,80 USD/tấn.
Thị trường lo ngại về nguồn cung đường toàn cầu bởi dự đoán sản lượng giảm tại cả EU, đặc biệt nhà sản xuất lớn thứ hai của khối, Pháp và Ấn Độ. Theo tổ chức Unica, lượng mía ép của Brazil trong nửa cuối tháng 1 đạt 307.000 tấn, tăng so với cùng kỳ năm trước khi quá trình chế biến đã dừng vào thời điểm này. Thái Lan dự kiến xuất khẩu 9 triệu tấn đường trong năm 2022/23, tăng 17% so với một năm trước.
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 5 tăng 0,95 US cent hay 0,5% lên 1,7465 USD/lb. Thị trường ghi nhận tuần tăng khoảng 0,78%; cà phê robusta kỳ hạn tháng 5 tăng 7 USD hay 0,3% lên 2.039 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường vẫn tập trung theo dõi quy mô sản lượng cà phê năm nay của Brazil với nhiều người hiện nay dự đoán không lớn như đã dự đoán vài tháng trước. Sản lượng cà phê trong khu vực hoạt động của Cooxupe của Brazil, hợp tác xã cà phê lớn nhất thế giới, sẽ tăng vào năm 2023 so với năm 2022 nhưng không phải là mức kỷ lục, đại diện của Cooxupe cho biết hôm thứ Năm.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản kết thúc phiên cuối tuần giảm, tính chung cả tuần giảm tuần thứ hai liên tiếp do thị trường Thượng Hải giảm và lo ngại về suy giảm kinh tế toàn cầu.
Trên sàn giao dịch Osaka, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 7 đóng cửa phiên 10/2 giảm 1,3% xuống 224,5 JPY (1,71 USD)/kg. Hợp đồng này đã xuống mức thấp nhất kể từ ngày 17/1 tại 223,9 JPY trong đầu phiên này. Tính chung cả tuần hợp đồng cao su giảm 0,8%. Trên thị trường Thượng Hải, hợp đồng cao su giao tháng 5 giảm 125 CNY xuống 12.545 CNY (1.845 USD)/tấn.
Dự trữ cao su tại kho của sàn Thượng Hải tăng 1,5% so với một tuần trước. Giá cao su giao tháng 3 trên sàn Singapore giảm 1%xuống 137,4 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới

 

ĐVT

Giá 3/2

Giá 10/2

10/2 so với 9/2

10/2 so với 9/2 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

73,41

79,00

-0,72

-0,90%

Dầu Brent

USD/thùng

79,96

85,67

-0,72

-0,83%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

61.130,00

65.210,00

+1.080,00

+1,68%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,44

2,55

+0,04

+1,59%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

231,95

248,30

-2,07

-0,83%

Dầu đốt

US cent/gallon

278,56

284,85

-1,61

-0,56%

Dầu khí

USD/tấn

806,50

829,75

-6,00

-0,72%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

78.500,00

75.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.882,50

1.870,70

-3,80

-0,20%

Vàng TOCOM

JPY/g

7.937,00

7.871,00

+13,00

+0,17%

Bạc New York

USD/ounce

22,35

21,89

-0,18

-0,84%

Bạc TOCOM

JPY/g

94,20

93,00

+0,10

+0,11%

Bạch kim

USD/ounce

980,96

945,77

-3,78

-0,40%

Palađi

USD/ounce

1.627,76

1.554,00

+8,33

+0,54%

Đồng New York

US cent/lb

404,85

400,55

-1,10

-0,27%

Đồng LME

USD/tấn

8.980,50

8.857,50

-125,50

-1,40%

Nhôm LME

USD/tấn

2.569,50

2.440,50

-58,50

-2,34%

Kẽm LME

USD/tấn

3.241,50

3.042,50

-80,50

-2,58%

Thiếc LME

USD/tấn

28.379,00

27.349,00

-396,00

-1,43%

Ngô

US cent/bushel

677,75

679,00

-1,50

-0,22%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

761,50

793,50

-2,25

-0,28%

Lúa mạch

US cent/bushel

385,00

375,00

-1,75

-0,46%

Gạo thô

USD/cwt

17,74

18,09

-0,03

-0,17%

Đậu tương

US cent/bushel

1.529,75

1.546,50

+4,00

+0,26%

Khô đậu tương

USD/tấn

495,50

483,00

+2,80

+0,58%

Dầu đậu tương

US cent/lb

59,30

60,44

-0,22

-0,36%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

829,30

823,20

-1,40

-0,17%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.621,00

2.606,00

-12,00

-0,46%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

172,80

174,65

+0,95

+0,55%

Đường thô

US cent/lb

21,24

20,04

+0,03

+0,15%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

241,75

252,55

-10,00

-3,81%

Bông

US cent/lb

85,43

85,58

-0,36

-0,42%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

499,80

419,60

-14,00

-3,23%

Cao su TOCOM

JPY/kg

141,00

137,60

-0,80

-0,58%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

2,16

0,00

0,00%

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)