Năng lượng: Giá dầu giảm mạnh nhất một tháng
Phiên giao dịch cuối tuần, giá dầu tăng mạnh sau khi một quan chức Mỹ cho hay sản lượng dầu của Saudi Arabia không thể tăng ngay lập tức như mong đợi và các nhà đầu tư chưa rõ liệu Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) có dư địa để tăng đáng kể sản lượng dầu thô hay không.
Phát biểu trong chuyến thăm Trung Đông của Tổng thống Mỹ Joe Biden được đưa ra vào thời điểm công suất dự phòng của các thành viên của OPEC đang cạn kiệt.
Kết thúc phiên cuối tuần (15/7), giá dầu Brent ở mức 101,16 USD/thùng, tăng 2,06 USD, tương đương 2,1% so với phiên liền trước; trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 1,81 USD, tương đương 1,9%, lên 97,59 USD/thùng; dầu Brent kỳ hạn tháng 9 tăng 2,06 USD, tương đương 2,08%, lên 101,16 USD/thùng.
Tính chung cả tuần, cả 2 loại dầu đều giảm mạnh nhất trong khoảng một tháng, chủ yếu do lo ngại rằng một cuộc suy thoái sắp xảy ra sẽ làm giảm nhu cầu. Dầu Brent mất 5,5% trong tuần qua, là tuần giảm thứ ba liên tiếp, trong khi WTI giảm 6,9% trong tuần giảm thứ hai liên tiếp.
Ông Biden, đã đến Jeddah vào thứ Sáu và dự kiến sẽ kêu gọi Saudi Arabia bơm thêm dầu để đảm bảo lợi ích về an ninh năng lượng.
Trong khi đó, số lượng giàn khoan dầu của Mỹ, một chỉ báo ban đầu về sản lượng trong tương lai, đã nhích thêm 2 đến 599 trong tuần này lên mức cao nhất kể từ tháng 3 năm 2020, dữ liệu từ công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes Co cho biết.
Người đứng đầu ngành dầu mỏ Libya cũng báo hiệu nguồn cung dầu sẽ tăng lên khi cho biết sản lượng dầu thô sẽ tiếp tục trở lại sau cuộc họp với các nhóm đã phong tỏa các cơ sở khai thác dầu của nước này trong nhiều tháng. Việc nâng sản lượng như vậy có thể đồng nghĩa với việc thu hồi 850.000 thùng mỗi ngày.
Các nhà hoạch định chính sách diều hâu nhất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ hôm thứ Năm cho biết họ ủng hộ mức tăng lãi suất 75 điểm cơ bản tại cuộc họp chính sách trong tháng này, chứ không phải mức tăng nhiều hơn như các nhà giao dịch đồn đoán.
Lo ngại rằng Fed có thể chọn giải pháp tăng lãi suất 100 điểm phần trăm trong tháng này và dữ liệu kinh tế yếu kém đã dẫn đến việc giá cả dầu Brent và WTI giảm hơn 5 đô la vào thứ Năm xuống dưới mức giá đóng cửa vào ngày 23 tháng 2, một ngày trước khi xảy ra xung đột giữa Nga và Ukraine.
Sản lượng nhà máy lọc dầu của Trung Quốc trong tháng 6 đã giảm gần 10% so với một năm trước đó, với sản lượng trong nửa đầu năm giảm 6%, lần giảm đầu tiên so theo năm kể từ ít nhất là 2011.
Giá khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) giao ngay tại châu Á trong tuần này vẫn ở mức cao do nhu cầu tăng vọt trong mùa hè và sự không chắc chắn về việc đường ống dẫn khí Nord Stream 1 có trở lại hoạt động ngay sau khi kết thúc giai đoạn bảo trì, ngày 21 tháng 7, hay không.
Giá LNG trung bình giao tháng 8 tới Đông Bắc Á hiện ở mức 40,50 USD/triệu đơn vị nhiệt Anh (mmBtu), giảm 0,50 USD hay 1,2% so với tuần trước; giá trung bình với hợp đồng kỳ hạn tháng 9 ước tính là 41,00 USD/mmBtu, mức cao nhất trong 4 tháng và gần với mức kỷ lục chạm tới vào tháng 12, là 44,35 USD/mmBtu.
"Thị trường LNG đang có vẻ khá khan hiếm vì nhiều lý do: nhu cầu mùa hè ở châu Á đang tăng lên và có một đợt nắng nóng đang diễn ra ở châu Âu cũng như ở Texas, nhưng đồng thời cũng có nhiều vấn đề về nguồn cung". Ryan McKay, nhà chiến lược hàng hóa thuộc TD Securities cho biết
Theo dữ liệu của Refinitiv Eikon, Peru LNG, vốn thường xuất đi 5-6 chuyến hàng mỗi tháng, đã không thấy xuất khẩu kể từ ngày 26 tháng 6 do sự cố ngừng hoạt động kéo dài đến cuối tháng 7.
Shell cũng đã thông báo với khách hàng rằng họ sẽ không thể cung cấp LNG hàng hóa từ cơ sở Prelude LNG ở Australia.
Mặc dù Trung Quốc có mức dự trữ trữ đảm bảo, nhưng đợt nắng nóng hiện nay đang gây căng thẳng cho hệ thống điện và có thể tăng mua LNG. Mauro Chavez Rodriguez, Giám đốc nghiên cứu thị trường khí đốt & LNG châu Âu của Wood Mackenzie cho biết Nhật Bản và Hàn Quốc cũng dự kiến sẽ mua thêm LNG cho mùa hè.
Tại Châu Âu, S&P Global Commodity Insights cho biết giá LNG trên cơ sở giao hàng xuất xưởng (DES) tới Tây Bắc Châu Âu (NWE) ngày 14/7 ở mức 41,358 USD/mmBtu, giảm 9,90 USD/mmBtu so với kỳ hạn tháng 8 tại trung tâm khí đốt Hà Lan, Ciaran Roe, ông Rodriguez cho biết.
Kim loại quý: Giá vàng giảm tuần thứ 5 liên tiếp
Phiên cuối tuần, giá vàng giảm, và tính chung cả tuần giảm tuần thứ 5 liên tiếp do sức mạnh của đồng USD bao phủ không chỉ thị trường vàng mà toàn bộ các thị trường rộng lớn trong bối cảnh Fed tăng lãi suất mạnh mẽ.
Cụ thể, giá vàng giao ngay phiên này giảm 0,3% xuống 1.704,30 USD/ounce, tính chung cả tuần giảm 2,2%; vàng kỳ hạn tháng 8 giảm 0,1% xuống 1.703,6 USD.
Jim Wyckoff, nhà phân tích cấp cao của Kitco Metals, cho biết: "Giá đã bị áp lực bởi đồng đô la rất mạnh”. Theo đó, USD dù giảm giá trong phiên vừa qua nhưng vẫn ở gần sát mức cao nhất trong 2 thập kỷ, làm giảm sức hấp dẫn của vàng đối với các nhà đầu tư nước ngoài và cũng thu hút dòng tiền trú ẩn an toàn trong bối cảnh lo ngại suy thoái.
TD Securities cho biết: “Với hiện tượng những ‘con bọ vàng’ rơi như domino, giá hiện đang về lại mức trước đại dịch, làm gia tăng rủi ro rằng nhóm đầu cơ vàng lớn nhất sẽ bắt đầu cảm thấy lo ngại trong thời kỳ Fed ‘diều hâu’”.
Vàng được coi là một biện pháp phòng ngừa lạm phát, nhưng việc tăng lãi suất làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng thỏi không có lãi suất.
Trong khi đó, doanh số bán lẻ của Mỹ hồi phục mạnh mẽ trong tháng 6 do người Mỹ chi tiêu nhiều hơn trong bối cảnh lạm phát tăng cao, điều này có thể làm giảm bớt lo ngại về một cuộc suy thoái sắp xảy ra nhưng không thay đổi quan điểm rằng tăng trưởng trong quý thứ hai vẫn trì trệ.
Các nhà đầu tư cũng quan tâm đến việc EU có khả năng sẽ có kế hoạch áp dụng gói trừng phạt thứ bảy chống lại Nga, trong đó bổ sung lệnh cấm nhập khẩu vàng của Nga. Ông Wycoff nói thêm: “Các biện pháp trừng phạt của EU sẽ không có tác động lớn đến cung và cầu vì Nga có thể bán vàng của họ cho các nước khác.
Trên thị trường vàng vật chất, đợt giảm giá gần đây đã thu hút một số người mua ở các trung tâm châu Á.
Về những kim loại quý khác, giá bạc phiên cuối tuần tăng 1,5% lên 18,65 USD/ounce, nhưng tính chung cả tuần giảm, giá bạch kim vững ở 843,90 USD, trong khi palladium giảm 2,8% xuống 1.843,69 USD, là tuần giảm đầu tiên sau 4 tuần tăng.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng loạt giảm
Phiên kết thúc tuần, giá đồng hồi phục sau khi chạm mức thấp nhất 20 tháng, dưới 7.000 USD, do dữ liệu của Mỹ làm giảm bớt lo ngai về việc lạm phát tiếp tục tăng và khiến USD giảm.
Theo đó, giá đồng giao sau 3 tháng trên Sàn Kim loại London kết thúc phiên 15/7 tăng 0,2% lên 7.186,50 USD/tấn, trước đó có lúc giá giảm 3% xuống còn 6.955 USD/tấn, là lần đầu tiên giảm xuống dưới mốc 7.000 đô la kể từ tháng 11 năm 2020.
Giá đồng đã bị ảnh hưởng bởi dữ liệu kinh tế ảm đạm từ Trung Quốc và lo ngại rằng việc Fed tăng lãi suất tích cực để kiểm soát lạm phát có thể gây ra suy thoái kinh tế toàn cầu.
Tuy nhiên, giá đồng đã hồi phục trở lại sau khi dữ liệu về người tiêu dùng Mỹ đã làm dịu mối lo ngại về lạm phát của nước này trong tháng 7 cùng với việc giá xăng giảm mạnh.
Xiao Fu, người đứng đầu chiến lược thị trường hàng hóa tại Bank of China International, cho biết thị trường đồng sẽ phục hồi với tình hình nguồn cung thắt chặt.
"Tôi nghĩ rằng thị trường đang bán quá mức một chút vì không có nhiều thay đổi về mặt cơ bản. Mức tồn kho vẫn còn khá chặt chẽ và vẫn có sự gián đoạn nguồn cung và tắc nghẽn", bà nói.
Dữ liệu từ Trung Quốc, nước tiêu thụ kim loại lớn nhất thế giới, cho thấy tăng trưởng kinh tế chậm lại mạnh trong quý thứ hai, chỉ tăng 0,4% so với một năm trước đó, mức tồi tệ nhất cho thấy kể từ khi chuỗi dữ liệu bắt đầu vào năm 1992.
Về những kim loại cơ bản khác, gía chì tăng 5,5% trong phiên cuối tuần lên 1,935 USD/tấn do nguồn cung khan hiếm. Tồn kho chì trên sàn LME hiện ở gần mức thấp nhất năm 2007. Giá nhôm tăng 0,2% lên 2.340,50 USD/tấn, nickel tăng 0,2% lên 19.440, kẽm tăng 1,7% lên 2.924,50 USD trong khi thiếc tăng 2,8% lên 24.995 USD.
Giá quặng sắt châu Á giảm xuống dưới 100 USD trong phiên thứ Sáu do lo ngại về nhu cầu thép suy giảm, khi nền kinh tế Trung Quốc quý hai chững lại và cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực bất động sản của nước này dường như đang trở nên tồi tệ hơn.
Tăng trưởng kinh tế của n Nhà sản xuất thép và tiêu thụ quặng sắt hàng đầu thế giới - Trung Quốc - giảm 2,6% trong quý 2 so với quý trước do việc phong tỏa chống Covid-19.
Phiên cuối tuần, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9 - được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, giảm 10% trong phiên này, xuống 645 nhân dân tệ (95,32 USD)/tấn vào cuối phiên giao dịch ban ngày, sau khi trước đó có lúc chạm mức 641,50 nhân dân tệ, mức thấp nhất kể từ ngày 15/12. Tính chung cả tuần, giá giảm 13,3%, mức giảm mạnh nhất kể từ giữa tháng 2.
Trên Sàn giao dịch Singapore, hợp đồng quặng sắt giao tháng 8 giảm 4% xuống 96,25 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ tháng 11, tính chung cả tuần giảm hơn 11%.
Do nhu cầu quặng sắt suy yếu, sản lượng thép thô của Trung Quốc trong tháng 6 đã giảm 3,3% so với một năm trước đó và giảm 6% so với tháng 5.
Các nhà sản xuất thép Trung Quốc đang cắt giảm sản lượng để giúp hạn chế lượng khí thải và với tỷ suất lợi nhuận bị ép bởi nhu cầu yếu, cho thấy triển vọng tiêu thụ các nguyên liệu sản xuất thép sẽ chưa thể phục hồi ngay lập tức.
Họ cũng đang phải đối mặt với nhiều sóng gió hơn với thời tiết xấu, các biện pháp hạn chế chống COVID và cuộc khủng hoảng đang diễn ra trong lĩnh vực bất động sản.
Các nhà phân tích của J.P.Morgan cho biết: “Chúng tôi tin rằng chính phủ cần phải can thiệp một cách dứt khoát và nhanh chóng để ổn định tâm lý thị trường vốn và tài sản”.
Nông sản: Giá hầu hết giảm trong tuần
Giá lúa mì Mỹ phiên cuối tuần giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 5 tháng do hy vọng xuất khẩu tăng từ Ukraine sẽ bổ sung nguồn cung cho thị trường thế giới. Cụ thể, giá lúa mì đỏ mềm vụ đông trên sàn Chicago, kỳ hạn tháng 9, giảm 18-1/4 cent xuống 7,76-3/4 USD/bushel, phiên giảm thứ 5 liên tiếp. Giá chạm đáy ở mức 7,65-3/4 USD, mức thấp nhất cho hợp đồng hoạt động tích cực nhất kể từ ngày 11 tháng 2.
Hợp đồng lúa mì đỏ mềm mùa đông kỳ hạn tháng 9 tuần này đã giảm 12,9%, mức giảm hàng tuần lớn nhất đối với hợp đồng hoạt động nhiều nhất kể từ tháng 3 năm 2011.
Trong khi đó, giá ngô tăng phiên thứ 7 trong 8 phiên gần đây do lo ngại về thời tiết nắng nóng ảnh hưởng đến cây trồng của Mỹ khi ngô đã qua giai đoạn thụ phấn. Giá ngô kỳ hạn tháng 12 phiên này tăng 2-3/4 cent lên 6,03-3/4 USD/bushel.
Giá đậu tương phiên này cũng tăng nhẹ, được hỗ trợ bởi các lo ngại về thời tiết, nhưng mức tăng bị hạn chế do cây trồng không ở trong giai đoạn phát triển quan trọng. Giá đậu tương giao tháng 11 tăng 1-1/4 cent lên 13,42-1/4 USD/bushel.
Nga, Ukraine, Thổ Nhĩ Kỳ và Liên Hợp Quốc sẽ ký một thỏa thuận vào tuần tới nhằm nối lại hoạt động xuất khẩu ngũ cốc ở Biển Đen từ Ukraine, vốn đã bị cản trở nghiêm trọng bởi cuộc chiến tranh.
Đối với mặt hàng đường, giá đường thô giao tháng 10 phiên này tăng 0,28 cent, tương đương 1,5%, lên 19,25 cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 8 tăng 3,00 USD tương đương 0,5% lên 598,60 USD/tấn.
Các đại lý cho biết tình trạng nguồn cung đường trắng bị thắt chặt trong thời gian gần đây một phần liên quan đến hạn chế xuất khẩu của Ấn Độ và điều này đang ngăn giá đường thô giảm. Đạo luật mới được Quốc hội Brazil thông qua đã khôi phục lợi thế về thuế đối với nhiên liệu sinh học so với nhiên liệu hóa thạch.
Giá cà phê arabica kỳ hạn trên sàn ICE phục hồi một phần vào thứ Sáu từ mức thấp nhất trong chín tháng ở phiên trước đó, tăng 2,3%, nhưng áp lực giảm giá vẫn tồn tại với những lo lắng về tăng trưởng toàn cầu và triển vọng sản lượng được cải thiện ở các nhà sản xuất hàng đầu là Braxin.
Cà phê arabica giao tháng 9 tăng 4,5 cent, tương đương 2,3%, ở mức 1,998 USD/lb, sau khi giảm 5,8% ở phiên liền trước, xuống mức thấp nhất trong 9 tháng là 1,9495 USD. Giá cà phê robusta giao tháng 9 giảm 7 USD, tương đương 0,4% xuống 1.923 USD/tấn, sau khi có lúc chạm mức thấp nhất trong gần một năm là 1.914 USD.
Giá cao su châu Á đồng loạt giảm trong phiên cuối tuần. Theo đó, giá cao su trên thị trường Nhật Bản giảm nhẹ do các nhà giao dịch lo lắng về nhu cầu thấp bởi nguy cơ kinh tế toàn cầu suy yếu.
Hợp đồng cao su giao tháng 12 trên Sở giao dịch Osaka kết thúc phiên giảm 0,3 yên xuống 241,5 yên (1,74 USD)/kg, tính chung cả tuần mất hơn 2% và là tuần giảm thứ 2 liên tiếp.
Giá cao su kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 385 nhân dân tệ, tương đương 3,2% xuống 11.705 nhân dân tệ (1.732,53 USD)/tấn.
Lo ngại về nhu cầu yếu ở nước tiêu dùng cao su hàng đầu thế giới - Trung Quốc cũng gây áp lực lên giá cả trong bối cảnh số ca nhiễm COVID-19 tăng. Nỗi lo về suy thoái đang tăng lên bởi dữ liệu cho thấy kinh tế nước này suy giảm mạnh trong qúy thứ 2, phản ánh tác động lớn từ việc phong tỏa chống COVID trên diện rộng. Mức tăng trưởng 0,4% hàng năm là mức thấp nhất kể từ ít nhất là năm 1992, trừ đầu năm 2020 khi đại dịch COVID bùng nổ.
Nhập khẩu cao su tự nhiên và tổng hợp của Trung Quốc tăng gần 16% trong tháng 6 so với một năm trước đó.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá 8/7
|
Giá 15/7
|
Giá 15/7 so với 14/7
|
Giá 15/7 so với 14/7 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
103,78
|
97,59
|
+1,81
|
+1,89%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
106,26
|
101,16
|
+2,06
|
+2,08%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
74.630,00
|
71.820,00
|
+740,00
|
+1,04%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
6,36
|
7,02
|
+0,42
|
+6,30%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
343,43
|
321,32
|
+2,64
|
+0,83%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
368,10
|
369,90
|
+4,96
|
+1,36%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
1.150,75
|
1.112,50
|
+45,25
|
+4,24%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
86.880,00
|
81.460,00
|
-1.970,00
|
-2,36%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.740,00
|
1.703,60
|
-2,20
|
-0,13%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
7.639,00
|
7.574,00
|
-13,00
|
-0,17%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
19,24
|
18,59
|
+0,37
|
+2,09%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
82,40
|
78,20
|
-1,90
|
-2,37%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
887,69
|
851,31
|
+4,88
|
+0,58%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.091,85
|
1.830,37
|
-73,22
|
-3,85%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
345,45
|
323,40
|
+2,25
|
+0,70%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
7.805,50
|
7.190,50
|
+20,50
|
+0,29%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.436,50
|
2.343,00
|
+6,50
|
+0,28%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.099,00
|
2.915,00
|
+40,00
|
+1,39%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
25.364,00
|
24.850,00
|
+532,00
|
+2,19%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
650,50
|
603,75
|
+2,75
|
+0,46%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
915,75
|
776,75
|
-18,25
|
-2,30%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
475,25
|
443,75
|
+0,75
|
+0,17%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
16,49
|
16,52
|
+0,13
|
+0,76%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.420,25
|
1.342,25
|
+1,25
|
+0,09%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
406,60
|
391,60
|
-11,00
|
-2,73%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
61,77
|
58,23
|
+2,45
|
+4,39%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
865,20
|
843,40
|
-0,20
|
-0,02%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.318,00
|
2.321,00
|
+74,00
|
+3,29%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
220,45
|
199,80
|
+4,50
|
+2,30%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,02
|
19,25
|
+0,28
|
+1,48%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
163,55
|
150,65
|
-1,15
|
-0,76%
|
Bông
|
US cent/lb
|
94,19
|
88,71
|
+5,00
|
+5,97%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
707,00
|
648,80
|
+2,80
|
+0,43%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
159,40
|
151,20
|
-0,70
|
-0,46%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|