Năng lượng: Giá dầu tăng tuần thứ 2 liên tiếp.
Giá dầu thế giới tăng trong phiên thứ Sáu (26/5) trong bối cảnh các quan chức Mỹ dường như sắp đạt được thỏa thuận về mức trần nợ công và xuất hiện các thông tin trái ngược về nguồn cung từ Nga và Saudi Arabia trước thềm cuộc họp chính sách tiếp theo của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước đồng minh, hay còn gọi là (OPEC+).
Kết thúc phiên này, dầu thô Brent tăng 69 US cent, tương đương 0,9%, lên 76,95 USD/thùng; trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 84 US cent, tương đương 1,2%, lên 72,67 USD/thùng. Tính chung cả tuần, cả hai loại dầu đều tăng tuần thứ 2 liên tiếp, với dầu Brent tăng 1,7% và dầu WTI tăng 1,6%.
Thị trường vẫn thận trọng do các cuộc đàm phán nợ kéo dài và có những quan ngại mới về khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất vào tháng tới - nhân tố có thể làm hạn chế nhu cầu dầu sau dữ liệu cho thấy chi tiêu tiêu dùng của Mỹ vẫn mạnh. Một quan chức của chính phủ Mỹ cho biết các cuộc đàm phán có thể kéo dài sang cuối tuần tới.
Giá dầu thô trên thị trường thế giới đã giảm hơn 2 USD/thùng vào thứ Năm sau khi Phó Thủ tướng Nga Alexander Novak hạ thấp triển vọng cắt giảm sản lượng tiếp theo của OPEC+ tại cuộc họp ở Vienna vào ngày 4 tháng Sáu.
Nga đang nghiêng về việc giữ nguyên khối lượng sản xuất dầu vì Moscow hài lòng với giá và sản lượng hiện tại, thông tin từ Nga cho biết.
Điều đó trái ngược với những gợi ý trước đó của Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia, Hoàng tử Abdulaziz bin Salman, lãnh đạo thực tế của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC), về khả năng cắt giảm sản lượng. Ông đã cảnh báo những người bán khống “hãy coi chừng”.
John Kilduff, đối tác tại Again Capital, cho biết: “Tôi nghĩ rằng tất cả chúng ta đều đang cảnh giác trước cuộc họp của OPEC vào tuần tới.
Ủy ban Giao dịch Hàng hóa Tương lai Mỹ (CFTC) hôm thứ Sáu cho biết rằng các nhà quản lý tiền đã cắt giảm các vị thế mua ròng dầu thô kỳ hạn và quyền chọn của Mỹ trong tuần tính đến ngày 23 tháng 5.
Trong khi đó, nhu cầu xăng của Mỹ dự kiến sẽ vẫn mạnh, với AAA dự đoán kỳ nghỉ cuối tuần Ngày Tưởng niệm 27-29 tháng 5 sẽ là dịp bận rộn thứ ba đối với du lịch bằng ô tô kể từ năm 2000.
Về nguồn cung, công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes Co cho hay số lượng giàn khoan dầu của Mỹ đã giảm 5 giàn xuống 570 giàn trong tuần này. Trong tháng 5/2023, số lượng gian khoan giảm khoảng 21 giàn, mức giảm nhiều nhất tính theo tháng kể từ tháng 6/2020.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chậm lại và lạm phát dai dẳng ở châu Âu đã hạn chế đà tăng giá của dầu mỏ. Giám đốc Ngân hàng Trung ương Hà Lan Klaas Knot cho biết Ngân hàng trung ương châu Âu cần ít nhất hai lần tăng lãi suất 25 điểm cơ bản/lần nữa.
Kim loại quý: Giá vàng giảm tuần thứ 3 liên tiếp
Giá vàng thế giới tăng trong phiên cuối tuần, song tính chung cả tuần giảm tuần thứ 3 liên tiếp do thị trường gia tăng kỳ vọng thỏa thuận trần nợ công của Mỹ sẽ đạt được vào phút chót trong bối cảnh thước đo lạm phát của Mỹ (chi tiêu của người tiêu dùng) cao hơn dự kiến đã làm tăng đặt cược vào khả năng lãi suất sẽ được duy trì ở mức cao hơn trong thời gian dài hơn.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.943,12 USD/ounce, trong phiên có lúc tăng 0,9%; vàng kỳ hạn tháng 6/2023 không thay đổi ở mức 1.944,3 USD/ounce. Giá bạc phiên này tăng 1,9% lên 23,23 USD/ounce nhưng tính chung cả tuần cũng giảm tuần thứ ba liên tiếp. Giá bạch kim tăng 0,2% lên 1.022,43 USD, trong khi palladium tăng 0,6% lên 1.425,61 USD.
Nhà Trắng và các thành viên đảng Cộng hòa đặt mục tiêu hoàn tất những bước cuối cùng về thỏa thuận nâng trần nợ trong hai năm.
Giá vàng chạm mức thấp nhất 2 tháng (1.936,59 USD/ounce) vào cuối phiên trên thị trường châu Á, và tính chung cả tuần giảm 1,7%.
Tai Wong, một nhà giao dịch kim loại, dự báo mặc dù có những tín hiệu tích cực từ Washington, song một thỏa thuận nợ vẫn khó có thể đạt được trước ngày 1/6.
Tuy nhiên, những nhà đầu tư lướt sóng kỳ vọng một thỏa thuận sẽ được thực hiện và "đã bán sau khi dữ liệu lạm phát cho thấy có thể tăng lãi suất vào tháng 6", Wong nói thêm.
Chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) đã tăng 4,4% trong 12 tháng tính đến tháng 4/2023, sau khi tăng 4,2% trong tháng 3/2023.
Phillip Streible, Giám đốc chiến lược thị trường tại Blue Line Futures ở Chicago, cho biết số liệu PCE có thể tác động đến thị trường vàng.
Các nhà giao dịch hiện đang đặt cược rằng Fed sẽ tăng lãi suất lần thứ 11 liên tiếp vào tháng Sáu tới, điều này sẽ làm giảm sức hấp dẫn của tài sản không sinh lời như vàng.
Lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm và chỉ số đồng USD giao dịch gần mức cao nhất kể từ giữa tháng 3/2023, cả hai đều đang trên đà tăng tuần thứ ba liên tiếp.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng và quặng sắt cùng giảm
Giá đồng tăng trong phiên cuối tuần song tính chung cả tuần vẫn giảm tuần thứ 6 liên tiếp trong bối cảnh nhu cầu từ nước tiêu thụ kim loại hàng đầu – Trung Quốc – và các thị trường khác suy giảm.
Kết thúc phiên thứ Sáu, giá đồng trên sàn London tăng 2,5% lên 8.159,5 USD/tấn và có phiên tăng mạnh nhất kể từ tháng 1/2023.
Tính đến nay, giá đồng giảm 15% kể từ mức cao trong tháng 1/2023 và trong tuần này giảm xuống dưới ngưỡng 8.000 USD/tấn – lần đầu tiên – kể từ tháng 11/2022.
Các nhà đầu cơ đã tích lũy các vị thế bán khống lớn nhất trong vòng 10 tháng đối với hợp đồng đồng Mỹ kỳ hạn tương lai do sự phục hồi kinh tế của Trung Quốc không như kỳ vọng và lãi suất tăng làm chậm tốc độ tăng trưởng ở các quốc gia khác, làm suy yếu nhu cầu về kim loại.
Giá đã được thúc đẩy bởi dữ liệu GDP và chi tiêu của người tiêu dùng của Mỹ tốt hơn dự kiến và các dấu hiệu cho thấy thỏa thuận nâng trần nợ của Mỹ đã gần đạt được, điều này làm giảm bớt lo lắng về vỡ nợ, nâng thị trường chứng khoán tăng điểm.
Nhà phân tích Ole Hansen của Ngân hàng Saxo cho biết, vùng hỗ trợ kỹ thuật chính cho đồng khoảng 7.800-7.900 USD đã được giữ vững và giá hiện sẽ ổn định.
Về các kim loại cơ bản khác, trong phiên cuối tuần, giá kẽm trên sàn London tăng 3,3% lên 2.347 USD/tấn nhưng vẫn giảm khoảng 5% trong tuần qua, sau khi đã giảm vào thứ Năm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 7 năm 2020.
Tồn kho kẽm tại LME đã tăng gấp 5 lần kể từ tháng 2 lên 74.550 tấn và nhu cầu yếu đối với thép - loại kẽm được sử dụng để mạ kẽm - đã đẩy giá thép cây của Trung Quốc tuần qua xuống mức thấp nhất trong 3 năm.
Giá nhôm phiên này tăng 0,7% lên 2.247 USD/tấn, chì không đổi ở mức 2.073,50 USD, niken tăng 0,1% lên 21.250 USD và thiếc tăng 1,2% lên 24.900 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm trong phiên thứ Sáu, tính chung cả tuần cũng giảm do triển vọng nhu cầu tại nước sản xuất thép hàng đầu – Trung Quốc – suy giảm, bởi hoạt động xây dựng chậm lại theo mùa.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Đại Liên kết thúc phiên 26/5 giảm 2,5% xuống 665,5 CNY (96,28 USD)/tấn – thấp nhất kể từ ngày 2/12/2022. Trước đó, lúc đầu phiên giá tăng 4% lên 709,5 CNY/tấn. Tính chung cả tuần, giá quặng sắt giảm 3,5%.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn Singapore tăng 4% lên 99,55 USD/tấn, trong phiên có lúc giảm 1,8% xuống 94 USD/tấn – thấp nhất kể từ tháng 11/2022. Tính chung cả tuần, giá giảm hơn 5%.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 1,5%, thép cuộn cán nóng tăng 1,8%, thép cuộn tăng 0,1% và thép không gỉ tăng 1,7%.
Đóng góp một yếu tố hỗ trợ cho giá quặng sắt, nhà cung cấp dữ liệu và tư vấn ngành Mysteel đã báo cáo sự gia tăng về tỷ lệ sử dụng công suất lò cao trong số 247 nhà máy thép Trung Quốc được đề cập trong cuộc khảo sát hàng tuần.
Mysteel cho biết tỷ lệ này đã tăng trong tuần thứ hai liên tiếp lên 89,93% trong khoảng thời gian từ ngày 19 đến ngày 25 tháng 5, thêm 0,8 điểm phần trăm so với tuần trước, do một số nhà máy ở miền bắc Trung Quốc đã khởi động lại lò cao sau giai đoạn bảo trì. Nhưng triển vọng chung của thị trường vẫn là giảm.
Tình trạng xây dựng chậm lại vào mùa hè điển hình ở Trung Quốc bắt đầu từ tháng 6 dự kiến sẽ hạn chế nhu cầu thép.
Nông sản: Giá ngũ cốc tăng, đường và cà phê giảm
Kết thúc phiên giao dịch ngày 26/5, giá các mặt hàng nông sản trên Sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT) tăng, với ngô tăng bởi dự báo thời tiết khô ở khu vực trung tây nước Mỹ ảnh hưởng đến năng suất cây trồng. Giá đậu tương và lúa mì kỳ hạn cũng tăng, với các thị trường nông sản công bố mức tăng hàng tuần sau khi gần đây giảm xuống mức thấp nhất trong nhiều tháng.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 13-1/4 US cent lên 6,04 USD/bushel và đạt mức cao nhất kể từ ngày 26/4/2023 (6,06-3/4 USD/bushel). Giá đậu tương kỳ hạn tháng 7/2023 tăng 3-1/4 US cent lên 13,37-1/4 USD/bushel và giá lúa mì giao cùng kỳ hạn tăng 11-3/4 US cent lên 6,16 USD/bushel.
Vào thứ Ba, Bộ Nông nghiệp Mỹ dự kiến sẽ công bố bản cập nhật hàng tuần về tiến độ trồng ngô và đậu tương cũng như xếp hạng tình trạng đầu tiên của mùa vụ ngô. Chính phủ đã dự báo nguồn cung của cả hai loại cây trồng sẽ tăng mạnh trong năm tới do dự báo về vụ thu hoạch kỷ lục.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE tăng 0,8% lên 25,02 US cent/lb, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ cuối tháng 4/2023 (24,61 US cent/lb) trong phiên trước đó. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London tăng 0,3% lên 700 USD/tấn.
Cơ quan Dự báo thời tiết nhà nước Ấn Độ cho biết nước này có thể sẽ nhận được một lượng mưa gió mùa bình thường vào năm 2023 bất chấp khả năng xuất hiện hiện tượng thời tiết El Nino. Những cơn mưa mùa hè bình thường có thể cho phép nhà sản xuất đường số 2 thế giới dỡ bỏ các hạn chế đối với xuất khẩu chất tạo ngọt. Trong khi đó, dữ liệu ngành cho thấy sản lượng đường tại khu vực trồng mía chính của Brazi đã tăng 50% trong nửa đầu tháng 5 so với một nămtrước.
Giá cà phê arabica tăng trong phiên cuối tuần từ mức thấp nhất hơn 1 tháng ở phiên liền trước.
Kết thúc phiên, cà phê arabica kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE tăng 0,4% lên 1,814 USD/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 1,5 tháng (1,7955 USD/lb) trong đầu phiên giao dịch.
Đồng thời, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn London tăng 1,2% lên 2.537 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 15 năm (2.675 USD/tấn) trong phiên ngày 23/5/2023.
Nông dân tại Việt Nam, nhà sản xuất cà phê robusta hàng đầu thế giới, dự kiến sản lượng sẽ giảm 10%-15% trong niên vụ 2022/23, trong khi các nhà xuất khẩu lo ngại không đủ cà phê để thực hiện các đơn hàng.
Giá cao su tại Nhật Bản tương đối ổn định trong phiên cuối tuần, song có tuần giảm theo xu hướng giá cao su tại thị trường Thượng Hải giảm, trong khi đồng JPY tăng đã gây áp lực giá.
Giá cao su kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn Osaka không thay đổi ở mức 209,5 JPY (1,55 USD)/kg. Tính chung cả tuần, giá cao su giảm 1,5%.
Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Thượng Hải tăng 100 CNY lên 11.875 CNY (1.718 USD)/tấn.Giá cao su kỳ hạn tháng 6/2023 trên sàn Singapore tăng 1,1% lên 133,8 US cent/kg.
Đồng JPY Nhật Bản tăng 0,22% so với đồng USD lên 139,76, khiến hàng hóa mua bằng đồng JPY trở nên rẻ hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Farah Miller, Giám đốc điều hành của Helixtap Technologies, một công ty dữ liệu độc lập tập trung vào cao su, cho biết: "Hầu hết thị trường đang giảm giá. Bất kỳ hợp đồng tương lai nào tăng giá đều có thể là do sự phục hồi kỹ thuật trở lại sau khi đạt đến mức hỗ trợ".
Bà cho biết thêm, giá tại Indonesia và Thái Lan đang dao động quanh vùng biên lợi nhuận âm và sẽ rất khó khăn cho các nhà sản xuất nếu thị trường tiếp tục suy yếu.
Sản lượng cao su có thể bị ảnh hưởng ở nước xuất khẩu cao su hàng đầu Thái Lan khi gió mùa Tây Nam đến gần. Trung tâm chỉ huy nước quốc gia (NWCC) đã đưa ra cảnh báo lũ quét cho một số tỉnh ở tất cả các khu vực từ thứ Bảy đến thứ Năm (27/5 đến 1/6).
Giá hàng hóa thế giới:

ĐVT

Giá 19/5

Giá 26/5

26/5 so với 25/5

26/5 so với 25/5 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

71,55

72,67

+0,84

+1,17%

Dầu Brent

USD/thùng

75,58

76,95

+0,69

+0,90%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

64.420,00

65.400,00

+140,00

+0,21%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,59

2,42

-0,06

-2,38%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

257,61

270,34

+2,99

+1,12%

Dầu đốt

US cent/gallon

236,22

236,93

+2,31

+0,98%

Dầu khí

USD/tấn

689,25

692,50

+13,25

+1,95%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

75.000,00

75.000,00

--

--

Vàng New York

USD/ounce

2.000,30

1.963,10

+0,80

+0,04%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.750,00

8.783,00

+24,00

+0,27%

Bạc New York

USD/ounce

24,06

23,36

+0,45

+1,96%

Bạc TOCOM

JPY/g

105,80

104,30

+1,20

+1,16%

Bạch kim

USD/ounce

1.066,59

1.026,37

+0,85

+0,08%

Palađi

USD/ounce

1.514,72

1.426,25

+4,49

+0,32%

Đồng New York

US cent/lb

373,20

368,20

+9,40

+2,62%

Đồng LME

USD/tấn

8.251,50

8.135,00

+172,50

+2,17%

Nhôm LME

USD/tấn

2.283,50

2.237,50

+6,50

+0,29%

Kẽm LME

USD/tấn

2.479,00

2.343,50

+71,50

+3,15%

Thiếc LME

USD/tấn

25.451,00

24.846,00

+239,00

+0,97%

Ngô

US cent/bushel

554,50

604,00

+13,25

+2,24%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

605,00

616,00

+11,75

+1,94%

Lúa mạch

US cent/bushel

322,25

343,50

+7,50

+2,23%

Gạo thô

USD/cwt

15,05

14,72

+0,05

+0,34%

Đậu tương

US cent/bushel

1.307,25

1.337,25

+13,25

+1,00%

Khô đậu tương

USD/tấn

409,10

402,20

+5,00

+1,26%

Dầu đậu tương

US cent/lb

47,27

48,82

+0,30

+0,62%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

697,40

658,80

+3,80

+0,58%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.068,00

2.991,00

-26,00

-0,86%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

192,00

181,60

-1,10

-0,60%

Đường thô

US cent/lb

25,78

25,37

+0,54

+2,17%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

258,20

291,95

+1,45

+0,50%

Bông

US cent/lb

86,72

80,54

+2,04

+2,60%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

135,30

132,60

+2,00

+1,53%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

2,16

0,00

0,00%

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)