Năng lượng: Giá dầu tăng mạnh trong tuần
Giá dầu trong phiên cuối tuần hồi phục để kết thúc một tuần tăng trong bối cảnh các nhà đầu tư lạc quan về nhu cầu của Trung Quốc.
Kết thúc phiên này, giá dầu Brent tăng 1,08 USD, hay 1,3%, lên 85,83 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 1,52 USD, hay 1,9%, lên 79,68 USD/thùng.
Lúc đầu phiên, giá giảm hơn 2 USD/thùng sau khi sau khi Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE) bác bỏ thông tin các quan chức nước này đang thảo luận nội bộ về việc có rời khỏi Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) hay không.
Tính chung trong tuần, giá cả 2 loại dầu tăng mạnh thứ 3 trong năm nay, và chốt ở mức đóng cửa cao nhất kể từ ngày 13/2 khi số liệu kinh tế của Trung Quốc mạnh mẽ mang lại hy vọng tăng trưởng nhu cầu dầu.
Nhà phân tích Matt Smith của Kpler cho biết: “Hôm nay, giá dầu thô đã giảm mạnh do có tin đồn về việc UAE rời OPEC+ trước khi đảo chiều tăng mạnh khi tin đồn này gây tranh cãi, và thay vào đó, dầu thô đã vào đợt tăng giá chấp nhận rủi ro”.
Hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ của Trung Quốc trong tháng 2 đã mở rộng với tốc độ nhanh nhất trong 6 tháng trong khi hoạt động sản xuất cũng tăng trưởng. Nhập khẩu dầu Nga bằng đường biển vào Trung Quốc dự kiến sẽ đạt mức cao kỷ lục trong tháng này.
Trung Quốc, nhà nhập khẩu dầu hàng đầu thế giới, đang có nhiều tham vọng hơn với mục tiêu tăng trưởng năm 2023, nhắm tới mức cao tới 6%, kết quả thăm dò sơ bộ của Reuters cho thấy.
Đồng đô la suy yếu và các nhà phân tích được Reuters thăm dò dự đoán đồng bạc xanh sẽ chịu áp lực trong 12 tháng tới, điều này sẽ khiến dầu được định giá bằng đô la rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Ngân hàng Trung ương châu Âu vẫn phát tín hiệu sẽ tăng lãi suất, với thành viên Hội đồng quản trị ECB Pierre Wunsch nói rằng lãi suất cơ bản của họ có thể tăng cao tới 4% nếu lạm phát vẫn cao.
Kim loại quý: Giá vàng tăng tuần đầu tiên trong 5 tuần
Giá vàng tăng lên mức cao nhất hai tuần trong phiên cuối tuần, tính chung cả tuần tăng tuần tăng đầu tiên trong 5 tuần do USD và lợi suất trái phiếu của Mỹ giảm khiến thị trường kỳ vọng áp lực tăng lạm phát của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ giảm bớt, giúp Fed có thời gian nghỉ ngơi trước khi tăng lãi suất tiếp.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,8% lên 1,850 USD/ounce, cao nhất kể từ ngày 15/2. Tính chung cả tuần, giá tăng 2,2%. Giá vàng kỳ hạn tháng 4 tăng 0,8% lên 1.854,6 USD/ounce.
Bart Melek người phụ trách bộ phận chiến lược thị trường hàng hóa cho biết cho tới khi có chất xúc tác mới, chẳng hạn như số liệu việc làm hay giá tiêu dùng trong tuần tới, vàng dường như vẫn duy trì trong phạm vi 1.830 – 1.850 USD/ounce. Theo ông, với việc Trung Quốc đang phục hồi, tiêu thụ vàng có thể tiếp tục mạnh mẽ, đồng thời mọi người cũng mua kim loại này để phòng ngừa lạm phát.
Với những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 1,3% lên 21,15 USD/ounce và tính chung cả tuần tăng mạnh nhất kể từ tháng 1; bạch kim tăng 1,6% lên 976,98 USD, trong khi palladium tăng 0,2% lên 1.452,20 USD.
Chỉ số đồng USD trong tuần qua giảm lần đầu tiên trong năm nay, khiến vàng thỏi trở nên hấp dẫn hơn đối với những người nắm giữ tiền tệ khác; trong khi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm giảm khỏi mức cao nhất trong vòng gần 4 tháng (là trên 4%). Lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm cũng giảm khỏi mức gần 5%.
Đồng USD mạnh có thể gây sức ép lên các hàng hóa được định giá theo đồng tiền này, khi khiến hàng hóa trở nên đắt hơn với những người mua bằng các đồng tiền khác.
Trong nội bộ Fed đã có ý kiến rằng nên giảm tốc độ tăng lãi suất. Trong khi Thống đốc Fed Christopher Waller cho biết dữ liệu kinh tế mạnh mẽ có thể đưa lãi suất lên trên phạm vi 5,1% -5,4%, thì Chủ tịch Fed Atlanta, Raphael Bostic, cho biết ông ủng hộ việc tăng lãi suất "chậm và ổn định" trong tthời gian tới, và tạm dừng vào giữa hoặc cuối mùa hè.
Các thương gia hiện dự đoán Fed sẽ thực hiện ít nhất ba lần tăng lãi suất nữa, mỗi lần thêm 25 điểm cơ bản, từ nay đến cuối năm, và mức đỉnh lãi suất sẽ là 5,43% vào tháng Chín. Mặc dù vàng thường được coi là một công cụ phòng ngừa lạm phát, nhưng lãi suất tăng làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng thỏi không sinh lãi.
Craig Erlam, nhà phân tích thị trường cấp cao thuộc OANDA, đã viết trong một ghi chú rằng nếu vàng hỗ trợ phá vỡ mức 1780- 1800 trong vài tuần tới, điều đó có thể là do sự thay đổi mạnh mẽ hơn trong chính sách tiền tệ của Mỹ.
Kim loại công nghiệp: Giá quặng sắt cao nhất 8 tháng, đồng tăng trong tuần
Giá đồng tăng trong phiên cuối tuần và ghi nhận tuần tăng mạnh nhất kể từ đầu tháng 1 do số liệu kinh tế mạnh mẽ tại Trung Quốc làm tăng hy vọng về nhu cầu.
Kết thúc phiên này, đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) vững ở mức 8.956,5 USD/tấn, tính chung cả tuần giá tăng khoảng 2,8%. Giá đồng đã đạt mức cao nhất 7 tháng vào tháng 1, là 9.550,5 USD nhưng sau đó sụt giảm trong bối cảnh nhu cầu của Trung Quốc yếu và dự đoán Fed sẽ tăng lãi suất tiếp, làm giảm tăng trưởng kinh tế và thúc đẩy USD tăng.USD mạnh lên khiến các kim loại định giác bằng đồng tiền này đắt hơn cho người mua bằng ngoại tệ khác và có thể gây sức ép lên nhu cầu.
Dự trữ đồng là thấp so với tiêu chuẩn trong lịch sử nhưng dự trữ tại kho ngoại quan của Trung Quốc và sàn giao dịch Thượng Hải tăng lên 408.680 tấn từ mức 100.000 tấn trong cuối tháng 12/2022.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm phiên cuối tuần tăng 0,1% lên 2.401 USD/tấn, kẽm tăng 0,2% lên 3.054 USD, niken tăng 0,4% lên 24.500 USD và thiếc tăng 0,1% lên 24.600 USD. Riêng chì giảm 0,8% xuống 2.109,50 USD. Tính chung cả tuần, giá nhôm, kẽm và chì tăng, trong khi niken đi ngang và thiếc giảm.
Giá quặng sắt trên thị trường châu Á đồng loạt tăng trong phiên cuối tuần, với giá tại sàn Đại Liên đạt mức cao nhất trong 8 tháng bởi các yếu tố cung cầu thuận lợi và lạc quan về nhu cầu thép tương lai.
Kết thúc phiên này, quặng sắt kỳ hạn tháng 5 trên sàn Đại Liên tăng 1,04% lên 919 CNY (133,15 USD)/tấn, mức cao nhất kể từ tháng 7/2022; quặng sắt giao tháng 4 trên sàn Singapore tăng 0,1% lên 126,5 USD/tấn.
Giá thép không tăng nhiều như giá nguyên liệu thô khiến các nhà máy bị giảm lợi nhuận. Tại Thượng Hải, giá thép cây tăng 1,26% lên 4.272 CNY/tấn, thép cuộn cán nóng tăng 1,34%, thép không gỉ tăng 0,8%.
Các nhà máy tăng cường sản xuất nhưng dự trữ quặng sắt của họ khá thấp, điều đó đang hỗ trợ giá quặng sắt. Công suất hoạt động của lò cao khi khảo sát 247 nhà máy thép khắp Trung Quốc ở mức 81,07% tính tới ngày 3/3, tăng 6,35% so với một năm trước, theo công ty tư vấn Mysteel.
Tuy nhiên, dự trữ quặng sắt tại các cảng giảm 2,23 triệu tấn so với tuần trước xuống khoảng 140 triệu tấn.
Ngũ cốc: Giá đường tăng trong tuần, cà phê và ngũ cốc giảm
Giá ngô Mỹ tăng ở phiên cuối tuần bởi việc mua vào đầu cơ. Các nhà đầu tư cho biết thị trường đã bán quá nhiều sau khi giảm 6 trong 7 phiên trước đó, và kỳ vọng đợt giảm giá gần đây sẽ thu hút sự quan tâm của khách hàng nước ngoài đã hỗ trợ thêm cho giá ngô. Trong khi đó, giá ậu tương tăng do giảm dự đoán về sản lượng vụ thu hoạch ở Argentina bởi thời tiết khô và nóng tiếp tục gây hại cho cây trồng trong suốt giai đoạn cây phát triển. Giá lúa mì giảm bởi lo ngại về nhu cầu xuất khẩu và trong nước yếu.
Trên sàn giao dịch Chicago, hợp đồng Ngô kỳ hạn tháng 5 kết thúc phiên 3/3 tăng 6 US cent lên 6,39-3/4 USD/bushel; đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 5 tăng 9-1/2 US cent lên 15,18-3/4 USD/bushel; trong khi lúa mì mềm đỏ vụ đông giảm 4 US cent xuống 7,08-3/4 USD/bushel, lúa mì cứng đỏ vụ đông sụt giảm mạnh bởi dự báo thời tiết thuận lợi cho khu vực trồng trọt quan trọng của đồng bằng Mỹ, đóng cửa giảm 11 US cent xuống 8,15 USD/bushel.
Trọng tâm của thị trường vẫn đang đặt vào những ước tính cho thấy vụ mùa của Argentina có thể giảm do nước này đang phải hứng chịu đợt hạn hán lịch sử. Giá ngũ cốc có nhiều khả năng tăng cao hơn thay vì giảm trong ngắn hạn, đồng thời cho rằng các đợt tăng giá đang mang lại cơ hội bán tháo hàng.
Cũng trong phiên cuối tuần, giá đường thô kỳ hạn tháng 5 đóng cửa tăng 0,61 US cent hay 3% lên 20,92 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 5 tăng 15,6 USD hay 2,7% lên 588,4 USD/tấn.
Giá đường được hỗ trợ bởi dự báo sản lượng của Ấn Độ trong vụ này yếu. Hơn 20 nhà máy tại Maharashtra đã dừng ép mía vào cuối tháng 2, sớm hơn gần hai tháng so với năm ngoái. Theo Hiệp hội các nhà máy đường Ấn Độ, từ đầu niên vụ tới nay các nhà máy đường của Ấn Độ đã sản xuất được 25,8 triệu tấn đường, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5 kết thúc phiên 3/3 giảm 4,35 US cent hay 2,4% xuống 1,7785 USD/lb; robusta giao cùng kỳ hạn giảm 18 USD hay 0,8% xuống 2.162 USD/tấn.
Ngân hàng Rabobank cho biết thị trường đã trở nên mua quá nhiều sau khi các nhà phân tích giảm dự báo của họ về vụ cà phê 2023/24 hiện nay tại Brazil.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản giảm do đồng JPY mạnh lên khiến mặt hàng này trở nên đắt hơn đối với những người mua bằng các ngoại tệ khác, nhưng tính chung cả tuần giá twang.
Hợp đồng cao su giao tháng 8 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa phiên này giảm 1,2 JPY, hay 0,5%, xuống 229,8 JPY (1,68 USD)/kg; tính chung cả tuần giá tăng 2,1%. Hợp đồng cao su giao tháng 5 trên sàn Thượng Hải giảm 5 CNY xuống 12.605 CNY (1.828,08 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 4 trên nền tảng SICOM của Sở giao dịch Singapore tăng 0,1% lên 141,5 US cent/kg.
Farah Miller, giám đốc điều hành của Helixtap Technologies, một công ty dữ liệu độc lập tập trung vào cao su, cho biết: "Tuần này, tâm lý thị trường tăng lên phần lớn là do kết quả PMI của Trung Quốc công bố vào giữa tuần cho thấy sự tích cực, thúc đẩy giá hợp đồng tương lai và giá hàng thực tăng cùng nhau". "Việc giảm nhẹ có thể là một số hoạt động chốt lời”.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá 24/2
|
Giá 3/3
|
3/3 so với 2/3
|
3/3 so với 2/3 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
76,29
|
79,20
|
-0,48
|
-0,60%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
83,09
|
85,29
|
-0,54
|
-0,63%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
66.230,00
|
68.250,00
|
+180,00
|
+0,26%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,58
|
2,72
|
-0,29
|
-9,64%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
236,31
|
273,89
|
-1,15
|
-0,42%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
281,74
|
288,78
|
-2,53
|
-0,87%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
816,00
|
854,25
|
-1,75
|
-0,20%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
75.000,00
|
75.000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.817,10
|
1.859,00
|
+4,40
|
+0,24%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
7.907,00
|
8.060,00
|
+7,00
|
+0,09%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
20,73
|
21,33
|
+0,09
|
+0,43%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
91,70
|
93,30
|
+0,90
|
+0,97%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
912,28
|
977,71
|
-4,95
|
-0,50%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.418,43
|
1.448,76
|
-9,69
|
-0,66%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
397,05
|
406,35
|
-0,35
|
-0,09%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.716,50
|
8.983,50
|
+25,00
|
+0,28%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.335,50
|
2.405,00
|
+5,50
|
+0,23%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.964,00
|
3.077,50
|
+29,50
|
+0,97%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
25.651,00
|
24.750,00
|
+180,00
|
+0,73%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
677,50
|
638,75
|
-1,00
|
-0,16%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
776,25
|
705,25
|
-3,50
|
-0,49%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
348,75
|
331,00
|
-0,75
|
-0,23%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
17,84
|
17,31
|
-0,04
|
-0,26%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.522,25
|
1,516,75
|
-2,00
|
-0,13%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
474,90
|
481,30
|
0,00
|
0,00%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
61,75
|
60,89
|
-0,30
|
-0,49%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
820,30
|
823,70
|
+1,20
|
+0,15%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.748,00
|
2.760,00
|
-30,00
|
-1,08%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
187,70
|
177,85
|
-4,35
|
-2,39%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,67
|
20,92
|
+0,61
|
+3,00%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
248,40
|
226,85
|
-2,30
|
-1,00%
|
Bông
|
US cent/lb
|
83,53
|
84,17
|
+0,46
|
+0,55%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
400,80
|
406,10
|
-4,00
|
-0,98%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
139,50
|
141,90
|
-1,90
|
-1,32%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|