Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm nhẹ vào thứ Hai do thị trường đánh giá tác động của cuộc xung đột ở Trung Đông đối với nguồn cung dầu thô chỉ ở mức hạn chế thúc đẩy hoạt động bán chốt lời sau khi giá dầu tăng 2% vào tuần trước.
Kết thúc phiên thứ Hai, giá dầu thô Brent giảm 14 cent, tương đương khoảng 0,2%, xuống 78,15 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 18 cent, tương đương khoảng 0,3%, xuống 72,50 USD. Tuy nhiên, không có hợp đồng WTI nào được giao dịch. Cả hai loại dầu chuẩn này đều giảm hơn 1 USD/thùng vào đầu phiên.
Một số chủ tàu chở dầu đã tránh Biển Đỏ và nhiều tàu chở dầu đã thay đổi lộ trình vào thứ Sáu sau khi Mỹ và Anh tiến hành các cuộc tấn công nhằm vào các mục tiêu của Houthi ở Yemen sau khi tổ chức Houthi tiếp tục thực hiện các cuộc tấn công vào tàu chở hàng.
Cuộc xung đột trên vùng biển này cũng đã cản trở ít nhất 4 tàu chở khí đốt tự nhiên hóa lỏng di chuyển trong khu vực. Tuy nhiên, nguồn cung dầu hầu như không bị ảnh hưởng.
Tamas Varga của nhà môi giới dầu mỏ PVM cho biết: “Nhận thức rằng nguồn cung dầu không bị ảnh hưởng tiêu cực đang khiến những nhà đầu cơ giá lên chốt khoản lời lãi có được trong tuần trước. Đồng USD mạnh lên cũng góp phần làm giá dầu giảm trong phiên vừa qua”.
Các nhà phân tích của Citi cho biết cho đến nay không có tổn thất về nguồn cung dầu nào, nhưng sự gián đoạn vận chuyển đang gián tiếp khiến cho thị trường trở nên thắt chặt vì 35 triệu thùng bị neo trên biển do các chủ hàng phải thực hiện hành trình dài hơn để tránh Biển Đỏ.

Mỹ và Canada đang phải đối mặt với thời tiết lạnh giá khiến một số hoạt động sản xuất dầu phải ngừng hoạt động. Cơ quan quản lý đường ống Bắc Dakota hôm thứ Hai ước tính rằng sản lượng dầu của Bắc Dakota đã giảm 400.000-425.000 thùng/ngày do thời tiết cực lạnh và các vấn đề vận hành liên quan.

Phil Flynn, nhà phân tích tại Price Futures Group ở Chicago, cho biết: “Thời tiết lạnh đang ảnh hưởng đến sản xuất, nhưng giá dường như giảm do nhận thức rằng đợt rét đậm này sẽ sớm kết thúc”.
Tình hình kinh tế cũng vẫn có phần ảm đạm, với việc Ngân hàng Trung ương Châu Âu cảnh báo còn quá sớm để thảo luận về việc cắt giảm lãi suất.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do căng thẳng ở Trung Đông thúc đẩy các nhà đầu tư mua vàng làm nơi trú ẩn an toàn, trong bối cảnh thị trường đặt cược rằng Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ cắt giảm lãi suất ngay sau tháng 3.
Giá vàng giao ngay kết thúc phiên tăng 0,2% lên 2.052,10 USD/ounce; vàng kỳ hạn tương lai tăng 0,2% lên 2.056,40 USD, song giao dịch ở mức thấp do kỳ nghỉ Lễ Thánh Martin Luther King.
Cuộc chiến giữa Israel và Hamas đã vượt qua mốc 100 ngày khi Israel tiếp tục cuộc tấn công vào các cứ điểm của Hamas, trong khi việc lực lượng dân quân Houthi đe dọa đáp trả các cuộc không kích của Mỹ vào Yemen khiến rủi ro ngày càng gia tăng.
Vàng có xu hướng hoạt động tốt trong thời kỳ kinh tế bất ổn, với độ tin cậy có thể giúp bù đắp rủi ro của các tài sản dễ biến động hơn trong các điều kiện như bất ổn địa chính trị.
Han Tan, giám đốc phân tích thị trường tại Exinity Group, cho biết: “Vàng giao ngay cũng đang tăng khi thị trường bám vào hy vọng rằng Fed sẽ cắt giảm lãi suất cơ bản sớm nhất là vào tháng 3”. “Sẽ vẫn có cơ hội vàng đạt được mức cao kỷ lục mới miễn là Fed có thể hành động phù hợp với kỳ vọng của thị trường”.
Vàng thỏi đã đạt mức cao nhất mọi thời đại là 2.135,40 USD vào ngày 4 tháng 12.
Một yếu tố nữa hỗ trợ vàng là dữ liệu hôm thứ Sáu cho thấy giá sản xuất của Mỹ bất ngờ giảm trong tháng 12, khiến lãi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm giảm theo.
Theo công cụ theo dõi Fed của CME, các nhà giao dịch hiện đang dự đoán 73% khả năng Fed có thể cắt giảm lãi suất vào tháng 3.
Đối với các kim loại khác, giá bạc giao ngay giảm 0,1% xuống 23,16 USD/ounce, bạch kim tăng 0,6% lên 910,92 USD và palladium giảm 0,8% xuống 968,25 USD.
Ngân hàng HSBC cho biết trong một lưu ý: “Mặc dù dần dần chuyển sang dư thừa, chúng tôi tin rằng giá palladium có thể tăng khiêm tốn trong năm nay”.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng chịu áp lực giảm vào đầu phiên khi đồng đô la mạnh lên và thị trường lại dấy lên lo ngại về nhu cầu của Trung Quốc sau khi ngân hàng trung ương nước này giữ nguyên lãi suất – điều khiến cho thị trường bất ngờ. Tuy nhiên, về cuối phiên, việc tiến tới ngưỡng kháng cự 8.930 USD/tấn khiến giá kết thúc phiên tăng trở lại.
Đồng tiền Mỹ mạnh hơn khiến kim loại được định giá bằng đồng đô la trở nên đắt hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác, điều này có thể làm giảm nhu cầu.
Kết thúc phiên, giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,5% lên 8.381 USD/tấn, sau khi giảm tới 8.308 USD lúc giao dịch buổi sáng.
Một nhà giao dịch đồng cho biết: “Đồng đô la là yếu tố chính đối với kim loại cơ bản. Thị trường thất vọng vì thiếu hành động từ ngân hàng trung ương Trung Quốc”.
Ngân hàng trung ương Trung Quốc đã giữ nguyên lãi suất chính sách trung hạn vào thứ Hai, bất chấp kỳ vọng của thị trường về việc cắt giảm do đồng tiền yếu hơn đã hạn chế phạm vi nới lỏng tiền tệ trong ngắn hạn để thúc đẩy nền kinh tế.
Thị trường kim loại cơ bản đang chờ đợi dữ liệu của Trung Quốc về đầu tư, sản lượng công nghiệp, GDP và giá nhà công bố vào thứ Tư để tìm manh mối về triển vọng nhu cầu trong tương lai tại quốc gia tiêu thụ kim loại lớn nhất thế giới.
Về những kim loại cơ bản khác, đáng chú ý là giá kẽm trên Sàn LME đã tăng lên 2.615 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 3 tháng 1, sau khi Nyrstar cho biết họ sẽ đình chỉ hoạt động luyện kẽm tại nhà máy ở Budel vào nửa cuối tháng 1 do chi phí năng lượng cao và điều kiện thị trường khó khăn. Công suất của Budel là 315.000 tấn kẽm/năm.
Theo Marex, tin tức này đã khiến giá kẽm tăng 100 USD, đồng thời cho biết giá sau đó đã giảm do quan điểm rằng bất kỳ tổn thất sản xuất nào cũng sẽ không đủ để làm giảm thặng dư thị trường mà kẽm dường như sẽ phải đối mặt vào năm 2024.
Kết thúc phiên vừa qua, giá kẽm tăng 1,8% lên 2.559 USD/tấn. Trong khi đó, giá nhôm giảm 0,7% xuống 2.204 USD, chì tăng 1% lên 2.111 USD, thiếc tăng 0,4% lên 24.730 USD và niken giảm 0,7% xuống 16.220 USD.
Đối với kim loại đen, giá quặng sắt giảm phiên thứ hai liên tiếp do quốc gia tiêu dùng hàng đầu thế giới - Trung Quốc giữ nguyên lãi suất trung hạn, bất chấp kỳ vọng của thị trường, khiến các nhà giao dịch thất vọng.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 5 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc kết thúc phiên giảm 3,17% xuống 933 nhân dân tệ (130,10 USD)/tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 20 tháng 12 năm 2023.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 2 trên Sàn giao dịch Singapore giảm 1,38% xuống 127,9 USD/tấn, chạm mức thấp nhất kể từ ngày 5 tháng 12.
Giá thép trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải giảm trong phiên này, với thép cây Sgiảm 0,69%, thép cuộn cán nóng giảm 0,57%, thép thanh giảm 1,94% và thép không gỉ giảm 0,68%.
Trên thị trường nông sản, sàn Chicago đóng cửa nên không có giá ngũ cốc.
Đối với các mặt hàng khác, giá đường trắng kỳ hạn tháng 3 trên sàn London kết thúc phiên tăng 1,3% lên 626,20 USD/tấn.
Thị trường tiếp tục nhận được sự hỗ trợ từ lượng tồn kho trên toàn cầu thấp và mùa màng kém ở châu Á, mặc dù sản lượng ở Trung-Nam Brazil đã cao hơn nhiều so với tốc độ của mùa vụ trước.
Giá cà phê Robusta kỳ hạn tương lai tăng lên mức cao nhất trong ít nhất 16 năm do nguồn cung thắt chặt bởi xung đột ở Biển Đỏ làm gián đoạn dòng chảy cà phê từ Việt Nam.
Thị trường giao dịch cà phê arabica ở New York đóng cửa nghỉ lễ.
Giá cà phê Robusta kỳ hạn tháng 3 kết thúc phiên tăng 1,6% ở lên 2.987 USD/tấn sau khi đạt đỉnh 2.998 USD, đây là mức giá cao nhất trong ít nhất 16 năm.
“Nhập khẩu cà phê Robusta từ các khu vực trọng điểm vào châu Âu đang trở nên đắt đỏ và chậm hơn trong bối cảnh căng thẳng ở Biển Đỏ”, ngân hàng Rabobank cho biết.
Nhu cầu cũng được thúc đẩy bởi sự gia tăng sử dụng cà phê Robusta rẻ hơn trong các loại cà phê pha trộn, thay vì cà phê Arabica.
Giá cao su kỳ hạn tại Nhật Bản đạt mức cao nhất 6 tuần vào thứ Hai do thời tiết khắc nghiệt ở Thái Lan, nước xuất khẩu cao su tự nhiên hàng đầu thế giới, làm dấy lên lo ngại về nguồn cung thắt chặt, trong khi sự lạc quan về dữ liệu mạnh mẽ đến từ ngành ô tô cũng thúc đẩy tâm lý thị trường.
Hợp đồng cao su giao tháng 6 trên sàn giao dịch Osaka (OSE) tăng 5,5 yên, tương đương 2,11%, lên 266,1 yên (1,83 USD)/kg, mức đóng cửa cao nhất kể từ ngày 29 tháng 11.
Hợp đồng cao su giao tháng 5 trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) tăng 45 nhân dân tệ, kết thúc ở mức 13.785 nhân dân tệ (1.922 USD)/tấn. Hợp đồng cao su giao tháng 2 trên nền tảng SICOM của Singapore Exchange tăng 0,72% lên 154,10 US cent/kg.
Cục Khí tượng Thái Lan cảnh báo miền Bắc nước này sẽ có mưa dông từ ngày 15-17/1 và mưa lớn ở miền Nam từ ngày 15-18/1, có khả năng ảnh hưởng đến nguồn cung cao su thiên nhiên.
Doanh số bán ô tô của Volkswagen tăng trong năm ngoái được thúc đẩy bởi ô tô dành cho thị trường đại chúng và thương hiệu cao cấp Audi, có doanh số bán hàng vượt xa lượng giao hàng trước đại dịch là 1,9 triệu xe. Porsche cũng thông báo rằng lượng giao hàng bán lẻ năm 2023 tại Mỹ đạt tổng cộng 75.415 xe – một kỷ lục mới – và tăng 7,6% so với năm 2022.
Giá cập nhật:

 

ĐVT

Giá

+/-

z

Dầu thô WTI

USD/thùng

72,68

0,00

0,00%

Dầu Brent

USD/thùng

78,15

-0,14

-0,18%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

212,59

+0,56

+0,26%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

3,07

-0,24

-7,27%

Dầu đốt

US cent/gallon

266,10

-0,83

-0,31%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.058,20

+6,60

+0,32%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.054,10

-2,45

-0,12%

Bạc (Comex)

USD/ounce

23,33

+0,00

+0,00%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

915,36

-1,68

-0,18%

Đồng (Comex)

US cent/lb

377,85

+3,80

+1,02%

Đồng (LME)

USD/tấn

8.381,00

+42,00

+0,50%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.204,50

-15,00

-0,68%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.558,50

+44,50

+1,77%

Thiếc (LME)

USD/tấn

24.781,00

+150,00

+0,61%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

447,00

-10,75

-2,35%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

596,00

-7,75

-1,28%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

368,75

-14,75

-3,85%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

17,67

+0,15

+0,86%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.224,25

-12,25

-0,99%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

362,10

-0,10

-0,03%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

48,25

-0,47

-0,96%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

628,70

+1,70

+0,27%

Cacao (ICE)

USD/tấn

4.323,00

+49,00

+1,15%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

180,00

-4,05

-2,20%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

21,61

-0,15

-0,69%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

304,70

-0,90

-0,29%

Bông (ICE)

US cent/lb

81,31

-0,05

-0,06%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

154,50

+1,00

+0,65%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)