Trên thị trường năng lượng, giá dầu biến động nhẹ do chịu tác động từ 2 chiều: đồng USD tăng lên mức cao nhất 1 tháng và lo ngại về tác động từ sự gia tăng căng thẳng ở Trung Đông đối với nguồn cung năng lượng.
Giá dầu thô Brent kết thúc phiên tăng 14 cent, tương đương 0,2%, lên 78,29 USD/thùng. Ở mức cao nhất trong phiên, giá dầu Brent tương lai tăng 1 USD/thùng.
Dầu thô trung cấp Tây Texas (WTI) của Mỹ kết thúc ở mức 72,40 USD/thùng, giảm 28 cent, tương đương 0,4%, so với mức thanh toán hôm thứ Sáu (thị trường Mỹ đóng cửa nghỉ lễ vào thứ Hai).
Rob Thummel, giám đốc điều hành của công ty đầu tư năng lượng Tortoise Capital cho biết: “Giá dầu đang tìm hướng đi”.
Gây áp lực giảm giấ là việc đồng đô la Mỹ đạt mức cao nhất trong một tháng khi các nhà đầu tư giảm bớt kỳ vọng về việc Cục Dự trữ Liên bang sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 3. Đồng bạc xanh mạnh hơn làm giảm nhu cầu về dầu tính bằng đô la của những người mua sử dụng các loại tiền tệ khác.
Jay Hatfield, giám đốc danh mục đầu tư của InfraCap ở New York, cho biết dự báo thời tiết ôn hòa hơn vào cuối tháng 1 tại các trung tâm sản xuất lớn của Mỹ cũng gây áp lực lên giá. Ông Hatfield lưu ý rằng thời tiết ấm hơn có thể làm giảm nhu cầu về dầu sưởi, một sản phẩm tinh chế được sử dụng để sưởi ấm các ngôi nhà ở các vùng Đông Bắc và Trung Tây nước Mỹ.
Các nhà khí tượng học dự báo thời tiết ở 48 bang Hạ của Mỹ sẽ chuyển từ lạnh hơn bình thường trong tuần này sang gần như ấm hơn bình thường từ ngày 22 đến ngày 31 tháng 1.
Yếu tố tác động trái chiều là những dấu hiệu gia tăng căng thẳng ở Trung Đông, khi quân đội Mỹ thực hiện một cuộc tấn công mới nhằm vào 4 tên lửa đạn đạo chống hạm của Houthi ở Yemen.
Các cuộc tấn công của Houthi nhằm vào hoạt động vận tải Biển Đỏ đã làm gián đoạn hoạt động vận chuyển hàng hóa toàn cầu thông qua tuyến đường thương mại quan trọng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm hơn 1% do đồng đô la mạnh lên và lãi suất trái phiếu kho bạc Mỹ tăng sau khi Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Christopher Waller cho biết sẽ Fed sẽ không sớm cắt giảm lãi suất trong năm nay, nhưng việc các nhà đầu tư tích cực mua tài sản ‘trú ẩn an toàn’ đã hạn chế đà giảm của giá vàng.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay giảm 1,3% xuống 2.027,26 USD/ounce, sau khi tăng trong ba phiên trước đó; vàng kỳ hạn tháng 2 giảm hơn 1% xuống 2030,2 USD.
Đối với những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 1,2% xuống 22,93 USD/ounce, bạch kim giảm 2,1% xuống 895,56 USD và palladium giảm 3,8% xuống 934,32 USD, đánh dấu mức thấp nhất trong hơn một tháng.
Jim Wyckoff, nhà phân tích cấp cao của Kitco Metals, cho biết: “Chỉ số đồng đô la Mỹ tăng mạnh đang gây áp lực lên thị trường vàng cũng như sự gia tăng lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ trong ngày đầu tiên trở lại sau kỳ nghỉ lễ kéo dài ba ngày cuối tuần”.
“Tuy nhiên, người ta có thể lập luận rằng mức giảm giá vàng không phải là tệ so với mức độ mạnh của đồng đô la khi căng thẳng ở Trung Đông đang giữ giá ở mức sàn.”
Chỉ số Dollar index tăng gần 1% lên mức cao nhất trong hơn một tháng, khiến vàng thỏi trở nên kém hấp dẫn hơn đối với những người nắm giữ tiền tệ khác, trong khi lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm của Mỹ cũng tăng.
Ông Waller cho biết Mỹ đang “ở trong khoảng cách ấn tượng” với mục tiêu lạm phát 2% của Fed, nhưng ngân hàng trung ương không nên vội vàng cắt giảm lãi suất cho đến khi chắc chắn lạm phát sẽ được duy trì trong xu hướng giảm.
Nhiều người dự đoán Fed sẽ giữ lãi suất chính sách ổn định vào cuối cuộc họp ngày 30-31/1. Theo công cụ CME Fedwatch, các nhà giao dịch nhận thấy xác suất cắt giảm lãi suất vào tháng 3 là 67%. Trong khi đó, các quan chức Ngân hàng Trung ương Châu Âu cũng phản đối kỳ vọng của thị trường về việc cắt giảm lãi suất nhanh chóng trong năm nay.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng cũng giảm do chịu áp lực bởi đồng đô la tăng, nhưng mức giảm đã được hạn chế bởi hy vọng mới về việc Trung Quốc - nước tiêu dùng kim loại hàng đầu thế giới - sẽ đưa ra nhiều biện pháp kích thích hơn nữa. Đồng đô la mạnh làm cho hàng hóa định giá bằng đồng tiền Mỹ trở nên đắt hơn đối với người mua sử dụng đồng tiền khác.
Kết thúc phiên, trên Sàn giao dịch kim loại London (LME), đồng kỳ hạn ba tháng giảm 0,3% xuống 8.359 USD/tấn sau khi tăng 0,5% trong phiên trước. Giá đồng trên sàn LME đã giảm 4% kể từ khi chạm mức cao nhất trong gần 5 tháng vào ngày 28 tháng 12 và Hansen cho biết giá cần đóng cửa trên 8.400 USD để thu hút động lực mua mới.
Trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải, hợp đồng đồng kỳ hạn tháng 3 gần như không đổi ở mức 67.810 nhân dân tệ (9.440,21 USD)/tấn.
Ole Hansen, người phụ trách chiến lược hàng hóa của Ngân hàng Saxo, cho biết: “Thị trường đã phần nào bối rối trước bình luận của thành viên ECB ngày hôm qua, nhấn mạnh đến nguy cơ lạm phát sẽ ngăn cản ngân hàng cắt giảm lãi suất đến”. “Trước những cơn gió ngược này, đồng dường như đang hoạt động khá tốt. Tôi tin rằng chính hoạt động đầu cơ kích thích ở Trung Quốc đang bổ sung một chút động lực vào thị trường”. Ông đề cập đến việc truyền thông Trung Quốc đưa tin các nhà hoạch định chính sách nước này đang xem xét kích thích nhiều hơn dưới hình thức phát hành nợ mới trị giá 139 tỷ USD.
Sandeep Daga, giám đốc của Metal, cho biết: “Các nhà đầu tư cần phải thừa nhận rằng năm 2024 có thể là năm đầu tiên kể từ năm 2020 chứng kiến sự suy thoái đồng bộ ở hầu hết các nền kinh tế lớn. Tỷ lệ các quỹ đặt cược giảm giá đối với kim loại sẽ tăng lên”.
Đối với những kim loại cơ bản khác, giá nhôm trên sàn LME tăng 0,4% lên 2.213 USD/tấn và thiếc tăng 2% lên 25.275 USD trong khi niken giảm 0,4% xuống 16.160 USD, chì giảm 0,4% xuống 2.100,50 USD và kẽm giảm 0,8% xuống 2.538 USD.
Trong nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn tương lai tại Trung Quốc ghi phiên thứ tám giảm liên tiếp do quyết định không tăng lãi suất của Trung Quốc khiến các nhà đầu tư lo lắng.
Hợp đồng quặng sắt giao tháng 5 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc kết thúc phiên giảm 0,6% xuống 938,50 nhân dân tệ (130,65 USD)/tấn. Nó đạt 924,50 trước đó trong phiên, mức yếu nhất kể từ ngày 20 tháng 12.
Atilla Widnell, giám đốc điều hành của Navigate Commodities ở Singapore, cho biết: “Giá quặng sắt ban đầu đã tăng quá cao do nhiều quỹ đặt cược lớn vào sự phục hồi nhờ kích thích kinh tế sớm hay muộn”. Hợp đồng quặng sắt trên sàn Đại Liên đạt mức cao kỷ lục vào ngày 3/1, ở mức 1.025,50 nhân dân tệ.
Tuy nhiên, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 2 trên Sàn giao dịch Singapore phiên 16/1 kết thúc phiên tăng 0,3% lên 127,80 USD/tấn, phục hồi từ mức thấp nhất kể từ ngày 6 tháng 12 là 125,45 USD lúc đầu phiên.
Giá thép trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải cũng tăng. Thép cây tăng 0,2% lên 3.899 nhân dân tệ/tấn, thép cuộn cán nóng tăng 0,2% ở mức 4.029 nhân dân tệ, thép không gỉ tăng 0,1% lên mức 13.895 nhân dân tệ, trong khi thép thanh giảm 0,4% xuống 4.090 nhân dân tệ.
Ngân hàng trung ương Trung Quốc (PBOC) hôm thứ Hai đã giữ nguyên lãi suất chính sách trung hạn, bất chấp kỳ vọng của thị trường về việc cắt giảm.
Ông Widnell cho biết: “Các dữ liệu Trung Quốc công bố tiếp tục gây thất vọng, trong khi thị trường tài chính đang đòi hỏi nhiều kích thích hơn nữa một cách phi lý – gần đây nhất là thất vọng vì PBOC quyết định giữ nguyên lãi suất cơ sở đối với các khoảng cho vay trung hạn – kỳ hạn 1 năm”.
Trên thị trường nông sản, trên Sàn giao dịch Chicago (CBOT), giá đậu tương Mỹ tăng do yếu tố kỹ thuật trong không khí giao dịch không ổn định và một loạt tin tức các tác động trái chiều. Trong khi đó, ngô và lúa mì tiếp tục chuỗi phiên giảm giá, với hợp đồng lúa mì giao dịch nhiều nhất giảm xuống mức giá thấp nhất kể từ ngày 29 tháng 11.
Kết thúc phiên, giá đậu tương tăng 3 US cent lên 12,27-1/4 USD/bushel, ngô giảm 3,5 US cent xuống 4,43-1/2 USD/bushel, trong khi lúa mì giảm 14 cent xuống 5,82 USD/bushel.
Đối với mặt hàng đường, giá đường thô kỳ hạn tháng 3 tăng 4,2% lên 22,52 cent/lb, sau khi có lúc đạt mức cao nhất một tháng; đường trắng kỳ hạn tháng 3 tăng 2,9% lên 644,40 USD/tấn.
Giá cà phê Robusta kỳ hạn tháng 3 tăng 6,1% lên 3.170 USD/tấn vào lúc đóng cửa, sau khi có thời điểm đạt mức cao nhất trong ít nhất 16 năm, là 3.177 USD do nông dân Việt Nam trì hoãn việc giao cà phê đã bán từ trước, trong các vụ tấn công ở Biển Đỏ làm chậm việc giao hàng đến châu Âu. Cà phê arabica tháng 3 kết thúc phiên tăng 2,9% lên 1,8525 USD/lb. Tồn kho cà phê Robusta được chứng nhận tại ICE đang ở mức thấp nhất trong 9 năm, là 3.113 lô.
Giá cao su kết thúc chuỗi 3 phiên tăng liên tiếp và đóng cửa giảm khỏi mức cao nhất 7 tuần đạt được lúc đầu phiên do nhà đầu tư chốt lời trước khi số liệu kinh tế quan trọng của Trung Quốc được công bố.
Hợp đồng cao su giao tháng 6 trên sàn giao dịch Osaka (OSE) kết thúc phiên cửa giảm 0,7 yên, tương đương 0,26%, xuống 265,4 yên (1,82 USD)/kg. Trước đó, hợp đồng này có lúc tăng lên tới 268,6 yên, cao nhất kể từ ngày 29 tháng 11 năm 2023.
Hợp đồng cao su giao tháng 5 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) tăng 40 nhân dân tệ, kết thúc ở mức 13.875 nhân dân tệ (1.931,75 USD)/tấn. Hợp đồng cao su giao tháng 2 trên nền tảng SICOM của Singapore Exchange tăng 0,65% lên 154,50 US cent/kg.
Các nhà đầu tư đang chờ đợi số liệu tổng sản phẩm quốc nội cả năm 2023 của Trung Quốc sẽ được công bố vào thứ Tư. Dữ liệu hoạt động tháng 12 của Trung Quốc bao gồm sản lượng công nghiệp, doanh số bán lẻ và số liệu đầu tư đô thị cũng sẽ được công bố vào thứ Tư, có thể cho thấy sự mong manh của nền kinh tế và chi tiêu tiêu dùng vẫn còn thận trọng.
Giá cập nhật:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
z
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
71,94
|
-0,46
|
-0,64%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
77,86
|
-0,43
|
-0,55%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
211,94
|
-0,25
|
-0,12%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,82
|
-0,08
|
-2,76%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
264,73
|
-1,33
|
-0,50%
|
Vàng (Comex)
|
USD/ounce
|
2,031,80
|
+1,60
|
+0,08%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
2,029,16
|
+0,72
|
+0,04%
|
Bạc (Comex)
|
USD/ounce
|
23,05
|
-0,04
|
-0,19%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
898,16
|
-1,84
|
-0,20%
|
Đồng (Comex)
|
US cent/lb
|
376,45
|
-0,20
|
-0,05%
|
Đồng (LME)
|
USD/tấn
|
8.354,50
|
-26,50
|
-0,32%
|
Nhôm (LME)
|
USD/tấn
|
2.214,00
|
+9,50
|
+0,43%
|
Kẽm (LME)
|
USD/tấn
|
2.547,00
|
-11,50
|
-0,45%
|
Thiếc (LME)
|
USD/tấn
|
25.175,00
|
+394,00
|
+1,59%
|
Ngô (CBOT)
|
US cent/bushel
|
443,25
|
-0,25
|
-0,06%
|
Lúa mì (CBOT)
|
US cent/bushel
|
583,75
|
+1,75
|
+0,30%
|
Lúa mạch (CBOT)
|
US cent/bushel
|
4,429,00
|
+106,00
|
+2,45%
|
Gạo thô (CBOT)
|
USD/cwt
|
81,33
|
+0,02
|
+0,02%
|
Đậu tương (CBOT)
|
US cent/bushel
|
175,18
|
+1,00
|
+0,57%
|
Khô đậu tương (CBOT)
|
USD/tấn
|
443,25
|
-0,25
|
-0,06%
|
Dầu đậu tương (CBOT)
|
US cent/lb
|
583,75
|
+1,75
|
+0,30%
|
Hạt cải (ICE)
|
CAD/tấn
|
4,429,00
|
+106,00
|
+2,45%
|
Cacao (ICE)
|
USD/tấn
|
4,429,00
|
+106,00
|
+2,45%
|
Cà phê (ICE)
|
US cent/lb
|
185,25
|
+5,25
|
+2,92%
|
Đường thô (ICE)
|
US cent/lb
|
22,52
|
+0,91
|
+4,21%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)
|
US cent/lb
|
299,05
|
-5,65
|
-1,85%
|
Bông (ICE)
|
US cent/lb
|
81,33
|
+0,02
|
+0,02%
|
Lông cừu (ASX)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ (CME)
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su Singapore
|
US cent/kg
|
153,60
|
-0,80
|
-0,52%
|
Ethanol (CME)
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|