(VINANET) – Phiên cuối tuần 9/1 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 10/1 giờ VN), giá dầu tiếp tục giảm do lo ngại dư cung kéo dài. Tuy nhiên, vàng tăng nhẹ bởi lo ngại tình hình bất ổn tại Hy Lạp.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục giảm trong phiên cuối tuần, ghi nhận tuần thứ 7 liên tiếp giảm bởi lo ngại dư cung toàn cầu sẽ còn trầm trọng hơn nữa.
Giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 2/2015 trên sàn Nymex New York giảm 43 cent (-0,9%) xuống 48,36 USD/thùng. Tính chung trong tuần giá giảm 8,2%. Khối lượng giao dịch cao hơn 29% so với mức trung bình 100 ngày.
Giá dầu Brent giao tháng 2/2015 trên sàn ICE Futures Europe London giảm 85 cent (-1,7%) xuống 50,11 USD/thùng, thấp nhất kể từ 28/4/2009. Tính chung trong tuần giá giảm 11,2%, mức giảm lớn nhất kể từ cuối tháng 11/2014 khi OPEC quyết định giữ nguyên mục tiêu sản lượng. Khối lượng giao dịch cao hơn 60% so với mức trung bình 100 ngày.
Giá dầu thô kỳ hạn đã giảm hơn 50% từ mức đỉnh hồi tháng 6/2014 trong bối cảnh sản lượng toàn cầu tăng trong khi nhu cầu yếu ớt.
Giới thương nhân và đầu tư cho biết, dường như không có động cơ đặc biệt đằng sau tình trạng bán tháo hôm thứ Sáu 9/1. Thị trường cho rằng sản lượng dầu toàn cầu cần phải giảm mạnh để ổn định giá.
theo số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), nguồn cung và dự trữ dầu thô cùng sản phẩm dầu mỏ của Mỹ trong tuần kết thúc vào 2/1 đạt kỷ lục.
Giá dầu giảm mạnh đã khiến các công ty dầu mỏ phải xem xét lại kế hoạch sản xuất. Baker Hughes Inc công bố số liệu cho thấy số lượng các giàn khoan dầu đang hoạt động tại Mỹ giảm 61 giàn trong tuần, mức giảm lớn nhất kể từ năm 1991. Số giàn khoan tại Mỹ đã giảm liên tục 5 tuần, cho thấy các nhà sản xuất nước này đang tìm hướng đi mới để đối phó với tình trạng giá dầu liên tục bắt đáy. Mặc dù vậy, tổng số giàn khoan của Mỹ hiện có vẫn cao hơn so với một năm trước đây.
Giá dầu giảm ngay đầu năm 2015 đã khiến một số ngân hàng tiếp tục hạ dự báo.
BNP Paribas SA hôm thứ Năm 8/1 đã hạ dự báo giá dầu Brent trung bình năm 2015 xuống 60 USD/thùng, giảm so với 77 USD/thùng dự báo hồi tháng 11/2014; giá dầu WTI xuống 55 USD/thùng, giảm 15 USD/thùng so với dự báo trước đó.
Hôm thứ Sáu 9/1, Commerzbank cũng hạ dự báo giá dầu Brent trong quý I/2015 xuống 45 USD/thùng từ 65 USD/thùng dự báo trướ đó và giá cả năm 2015 xuống 75 USD/thùng từ 80 USD/thùng trước đó.
Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 2/2015 trên sàn Nymex giảm 1,77 cent, tương đương 1,3%, xuống 1,3232 USD/gallon, thấp nhất kể từ tháng 3/2009. Giá đã giảm 7,7% cho cả tuần. Trong khi giá dầu diesel giao tháng 2/2015 giảm 0,8 cent (-0,5%) xuống 1,7030 USD/gallon, giá giảm 5,2% cho cả tuần.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng phiên cuối tuần tăng trở lại sau khi USD và chứng khoán đều giảm giá do lo ngại những diễn biến bất lợi tại Hy Lạp.
Vàng kỳ hạn giao tháng 2/2015 trên sàn Comex New York tăng 0,6% lên 1.216,1 USD/ounce.
USD giảm 0,4% so với các đồng tiền chính trong giỏ tiền tệ và chứng khoán châu Âu tiếp tục đi xuống sau số liệu cho thấy việc làm phi nông nghiệp của Mỹ tháng 12/2014 tăng vượt dự đoán. Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ giảm 0,2 điểm phần trăm xuống 5,6%, thấp nhất 6 năm rưỡi.
Bất chấp những tiến bộ trên thị trường việc làm, giới đầu tư vẫn tập trung vào việc Fed tuyên bố sẽ kiên nhẫn trong việc nâng lãi suất do kỳ vọng lạm phát vẫn thấp, theo biên bản họp Fed công bố hôm thứ Tư 7/1.
Chủ tịch Fed Boston Eric Rosengren đã nhấn mạnh quan điểm thận trọng của Fed khi tuyên bố Fed có thể kiên nhẫn không chỉ về thời điểm lần đầu tiên nâng lãi suất mà cả về những lần tăng tiếp theo.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,5% lên 16,39 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,8% lên 1.224,75 USD/ounce và giá palladium tăng 1,6% lên 799,97 USD/ounce.
Trên thị trường cà phê, giá biến động trái chiều trong phiên cuối tuần, arabica tăng trong khi robusta giảm.
Trên thị trường New York, giá arabica kỳ hạngiao tháng 3/2015 tăng 3,15 US cent/lb lên 180,05 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 3,15 US cent/lb lên 182,7 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 3,1 US cent/lb lên 185,15 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá tăng 3,2 US cent/lb lên 187,15 US cent/lb.
Giá cà phê arabica tiếp tục tăng chủ yếu do dự báo thời tiết khô hạn tiếp tục diễn ra tại các vùng trồng cà phê chủ chốt tại Brazil. Jack Scoville tại Price Futures cho biết, giá cà phê kỳ hạn “tiếp tục phản ứng trước dự báo ngắn và trung hạn về thời tiết khô hạn tại Brazil”. Bên cạnh đó, đồng nội tệ real của Brazil tăng 1,2% so với USD cũng giúp đẩy giá trị cà phê Brazil tính bằng USD.
Trái lại robusta giảm bất chấp dự báo sản lượng cà phê Việt Nam – nước sản xuất robusta hàng đầu thế giới – “có thể giảm trong năm 2015 do thời tiết khô hạn vào thời điểm cây cà phê ra hoa và do số cây cà phê già cỗi, kém năng suất”, theo Jack Scoville.
Robusta kỳ hạn giao tháng 1/2015 trên sàn London giá giảm 2 USD/tấn xuống 1.933 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 6 USD/tấn xuống 1.963 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 3 USD/tấn xuống 1.990 USD/tấn; và kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 3 USD/tấn xuống 2.010 USD/tấn.
Cà phê Việt Nam giảm theo xu hướng tại London. Sáng nay (9/1), giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên đã có phiên thứ 2 giảm liên tiếp khi giảm 100.000 đồng/tấn xuống 40-40,8 triệu đồng/tấn. Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay giảm 6 USD/tấn từ 1.909 USD/tấn hôm qua xuống 1.903 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/-(%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
48,36
|
-0,43
|
-0,88%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
50,11
|
-0,85
|
-1,67%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
39.750,00
|
-800,00
|
-1,97%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,95
|
+0,02
|
+0,65%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
132,32
|
-1,77
|
-1,32%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
170,30
|
-0,80
|
-0,47%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
478,75
|
-9,00
|
-1,85%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
51.570,00
|
-610,00
|
-1,17%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.216,10
|
+7,60
|
+0,63%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.641,00
|
-6,00
|
-0,13%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,42
|
+0,03
|
+0,21%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
62,70
|
-0,10
|
-0,16%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz,
|
1.233,31
|
+14,68
|
+1,20%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz,
|
802,90
|
+11,07
|
+1,40%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
275,45
|
-1,50
|
-0,54%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.090,00
|
-14,00
|
-0,23%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.810,00
|
-22,00
|
-1,20%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.156,00
|
-4,00
|
-0,19%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.550,00
|
-230,00
|
-1,16%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
400,25
|
+6,00
|
+1,52%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
563,75
|
-3,25
|
-0,57%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
303,25
|
+1,00
|
+0,33%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,55
|
+0,02
|
+0,17%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.052,25
|
+4,00
|
+0,38%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
349,10
|
+1,90
|
+0,55%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,68
|
-0,08
|
-0,24%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
452,20
|
+0,50
|
+0,11%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.968,00
|
-18,00
|
-0,60%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
180,05
|
+3,15
|
+1,78%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
14,91
|
+0,03
|
+0,20%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
142,40
|
+1,25
|
+0,89%
|
Bông
|
US cent/lb
|
60,76
|
+0,20
|
+0,33%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
-
|
-
|
-%
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
319,00
|
-1,20
|
-0,37%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
208,20
|
+1,70
|
+0,82%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,48
|
+0,01
|
+0,82%
|
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg