(VINANET) – Phiên giao dịch cuối cùng của quý III trên thị trường thế giới, 30/9 (kết thúc vào rạng sáng 1/10 giờ VN), giá hàng hóa tiếp tục chịu tác động bởi xu hướng đồng USD tăng giá và một số yếu tố khác như kinh tế thế giới, cung- cầu hàng hóa.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu mỏ phiên dầu tuần giảm xuống mức thấp mới trong vòng hai năm qua do USD tăng giá, nguồn cung dầu cao và số liệu sản xuất mới của Trung Quốc thấp.

Dầu thô ngọt nhẹ (WTI) trên thị trường New York kỳ hạn giao tháng 11 giá giảm 3,01 USD xuống còn 91,55 USD/thùng. Dầu Brent tại London cùng kỳ hạn cũng giảm 2,45 USD so với phiên giao dịch trước đó, xuống còn 94,76 USD/thùng. Trong ngày có lúc giá dầu Brent giảm xuống chỉ 94,24 USD/thùng, mức thấp nhất trong vòng hai năm qua (kể từ phiên giao dịch ngày 29/6/2012).

Niềm lạc quan về triển vọng tăng trưởng của kinh tế Mỹ, nước tiêu thụ dầu mỏ hàng đấu thế giới đã khiến chỉ số sức mạnh đồng USD trong quý 3 vừa qua đạt mức tốt nhất trong vòng sáu năm qua và chạm mức cao trong vòng bốn năm vào hôm 30/9.

Ngược lại, đồng euro lại giảm xuống còn 1,2571 USD, mức thấp nhất kể từ đầu tháng 9/2012 sau khi Cơ quan thống kê châu Âu (Eurostat) công bố số liệu cho thấy lạm phát trong Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) giảm xuống mức thấp nhất kể từ khi khủng hoảng tài chính toàn cầu lên đến đỉnh điểm hồi tháng 10/2009.

Theo các nhà phân tích tài chính, giá trị của "đồng bạc xanh" tăng mạnh đã khiến dầu mỏ, mặt hàng được định giá bằng đồng tiền này trở nên đắt hơn đối với những khách hàng sử dụng các tiền tệ có giá trị thấp hơn.

Ngoài ra, chỉ số sản xuất của nền kinh tế lớn thứ hai, đồng thời là nước tiêu thụ dầu mỏ hàng đầu thế giới là Trung Quốc đã tác động không nhỏ tới viễn cảnh nhu cầu dầu của châu Á ở thời điểm thị trường này.

Bên cạnh đó, giá "vàng đen" giảm mạnh còn xuất phát từ lo ngại nguồn cung từ Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) trong tháng Chín này sẽ đạt mức cao nhất trong vòng hai năm qua, nhờ sản lượng khai thác dầu tăng cao ở Saudi Arabia và Libya.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 1 cũng do USD tăng và viễn cảnh nâng lãi suất làm giảm nhu cầu vàng như tài sản trú ẩn an toàn.

Tính chung trong tháng 9 giá vàng đã giảm 6% , còn trong quý III giảm 9%, đánh dấu đợt giảm hàng tháng lớn nhất từ tháng 6/2013 và đợt giảm hàng quý đầu tiên trong năm nay.

Giá vàng giao ngay tại New York giảm 5,70 USD xuống 1,205,90 USD/ounce.

Giá vàng giao tháng 12 trên sàn COMEX New York giảm 7,2 USD xuống 1.211,6 USD/ounce.

USD hôm 30/9 tăng lên mức cao nhất 4 năm so với các đồng tiền trong giỏ tiền tệ và cao nhất 2 năm so với euro sau khi lạm phát trong khu vực eurozone giảm trong tháng 9.

Hồi đầu tháng 9, Fed đã đánh tín hiệu có thể nâng chi phí đi vay nhanh hơn dự kiến. Viễn cảnh kinh tế tăng trưởng ổn định và đồng USD tăng giá cũng đang làm giảm tính hấp dẫn của vàng.

Đồng bạc xanh đã có 11 tuần tăng liên tiếp và đang hướng đến đợt tăng hàng quý lớn nhất trong 6 năm trước đồn đoán Fed sẽ nâng lãi suất sớm hơn dự kiến.

USD mạnh hơn sẽ khiến kim loại quý định giá bằng đồng tiền này trở nên đắt đỏ hơn. Nhà đầu tư có xu hướng rút tiền khỏi tài sản phi lợi nhuận để tìm kiếm lợi suất cao hơn khi USD tăng giá.

Bên cạnh đó, nhà đầu đầu tư cũng đang theo dõi diễn biến cuộc biểu tình tại Hong Kong do sự kiện này có thể ảnh hưởng đến doanh số bán lẻ trong khu vực – điểm thu hút khách du lịch từ Trung Quốc lục địa, nhất là trong kỳ nghỉ Tuần lễ vàng nhân dịp Quốc khánh bắt đầu từ 1/10.

Trên thị trường cà phê, giá đồng loạt tăng với cả 2 loại arabica và New York. Hợp đồng arabica kỳ hạn giao tháng 12 giá tăng 2,1 US cent/lb lên 193,35 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá tăng 2.05 US cent/lb lên 197,45 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 2 US cent/lb lên 199,85 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 2 US cent/lb lên 201,25 US cent/lb.

Cà phê robusta kỳ hạn tại London kỳ hạn giao tháng 11 giá tăng 29 USD/tấn, tương đương +1,48%, lên 1.992 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá tăng 29 USD/tấn, tương đương +1,47%, lên 2.007 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá tăng 28 USD lên 2.018 USD/tấn, và kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 27 USD lên 2.027 USD/tấn.

Cà phê Việt Nam tăng theo xu hướng thế giới. Sáng nay (1/10), giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên, đã có phiên tăng thứ 2 trong tuần, khi tăng 600.000 đồng/tấn lên 38,9-39,9 triệu đồng/tấn. Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay tăng 29 USD từ 1.933 USD/tấn cuối tuần trước lên 1.962 USD/tấn.

Trong khi thị trường cà phê arabica New York tiếp tục có nhiều biến động, thị trường cà phê robusta London khá trầm lắng. Thị trường London đang theo dõi thời điểm bắt đầu vụ thu hoạch mới tại Việt Nam, Indonesia và Ấn Độ với dự đoán sản lượng niên vụ tới sẽ cao hơn niên vụ hiện tại.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá
+/-
+/-(%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
91,55
-3,01
-0,27%
Dầu Brent
USD/thùng
94,24
-2,45
-0,32%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
65.630,00
-950,00
-1,43%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
4,12
0,00
+0,07%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
244,64
+0,91
+0,37%
Dầu đốt
US cent/gallon
266,22
+1,17
+0,44%
Dầu khí
USD/tấn
804,75
-3,50
-0,43%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
79.700,00
-900,00
-1,12%
Vàng New York
USD/ounce
1.205,90
-5,70
-0,47%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.261,00
-20,00
-0,47%
Bạc New York
USD/ounce
16,89
-0,17
-1,01%
Bạc TOCOM
JPY/g
60,00
-1,60
-2,60%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.285,50
-15,50
-1,19%
Palladium giao ngay
USD/t oz,
770,25
-3,05
-0,39%
Đồng New York
US cent/lb
300,35
-0,40
-0,13%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.667,00
-75,00
-1,11%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.960,00
-3,00
-0,15%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.288,00
-2,00
-0,09%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
20.310,00
-90,00
-0,44%
Ngô
US cent/bushel
319,00
-1,75
-0,55%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
474,25
-3,50
-0,73%
Lúa mạch
US cent/bushel
335,50
0,00
0,00%
Gạo thô
USD/cwt
12,75
+0,01
+0,04%
Đậu tương
US cent/bushel
908,25
-5,00
-0,55%
Khô đậu tương
USD/tấn
296,80
-2,10
-0,70%
Dầu đậu tương
US cent/lb
32,38
+0,01
+0,03%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
394,10
-1,80
-0,45%
Cacao Mỹ
USD/tấn
3.300,00
-11,00
-0,33%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
193,35
+2,10
+1,10%
Đường thô
US cent/lb
16,45
-0,35
-2,08%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
144,75
+0,80
+0,56%
Bông
US cent/lb
61,29
-0,08
-0,13%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
333,20
+0,30
+0,09%
Cao su TOCOM
JPY/kg
178,70
-4,80
-2,62%
Ethanol CME
USD/gallon
3.300,00
-11,00
-0,33%
T,Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg