(VINANET) – Trên thị trường thế giới phiên giao dịch 10/12 (kết thúc vào rạng sáng 11/12 giờ VN), giá hầu hết giảm, kể cả dầu và vàng.

Trên thị trường nông sản, giá đường tăng trong khi cà phê và cacao giảm.

Đường thô tăng giá phiên thứ 3 liên tiếp do hoạt động mua mạnh, sau thông tinh chính phủ Trung Quốc có thể hạn chế nhập khẩu đường, khiến nhiều nhà đầu tư tranh thủ mua vào lúc này.

Đường thô kỳ hạn tháng 3 trên sàn New York giá tăng 0,05 US cent hay 0,3% lên 15,47 US cent/lb.

Tuy nhiên, đường trắng kỳ hạn tháng 3 trên sàn London giảm 10 US cent hay 0,03% xuống 398,8 USD/tấn.

Hiệp hội Mía đường Brazil Unica dự báo diện tích trồng mía ở khu vực Trung Nam Brazil sẽ giảm mạnh.

Trên thị trường cà phê, giá giảm mạnh với cả 2 loại. Cà phê robusta trên thị trường London giá giảm xuống mức thấp nhất 2 tháng rưỡi do hoạt động bán mạnh.

Cà phê robusta kỳ hạn giao tháng 3 trên sàn London giảm 11 USD hay 0,6% xuống 1.938 USD/tấn, thấp nhất kể từ 30/9. Cà phê arabica kỳ hạn giao tháng 3 cũng giảm 1,90 US cent hay 1,1% xuống 1,7855 USD/lb.

Cơ quan Khí tượng Nhật Bản cho biết hiện tượng thời tiết El Nino đã xảy ra trong mùa hè, là lần đầu tiên đến vào mùa hè trong vòng 5 năm nay, và chắc chắn sẽ còn kéo dài tời mùa đông.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm trở lại sau thống kê cho thấy kho dự trữ dầu tại nước này tăng lên và Bộ trưởng Dầu mỏ Saudi Arabia nhấn mạnh rằng ông không có kế hoạch cắt giảm sản lượng, cộng thêm OPEC hạ dự báo nhu cầu năm 2015.

Dầu Brent trên sàn London giá giảm 3,9% xuống còn 64,24 USD/thùng – mức giá đóng cửa thấp nhất kể từ tháng 7/2009. Trên sàn giao dịch Nymex (New York), giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giảm 4,5% còn 60,94 USD/thùng.

OPEC hạ dự báo tiêu thụ dầu mỏ năm sau xuống còn 28,9 triệu thùng/ngày, thấp hơn 300.000 thùng so với trước đó và là mức thấp nhất kể từ năm 2003. Cùng lúc, ba thành viên lớn nhất trong khối OPEC là Saudi Arabia, Iraq và Kuwait đều đưa ra giá chào bán dầu mỏ cho các khách hàng ở mức thấp nhất trong vòng 6 năm.

Trước đó hôm 9/12, một quan chức Iran đã dự báo rằng giá dầu có thể giảm về 40 USD/thùng, còn một quan chức khác của Kuwait thì cho rằng giá dầu sẽ khoảng 65 USD/thùng trong vòng nửa năm tới nếu như OPEC không cắt giảm sản lượng. Lợi suất trái phiếu của các nước xuất khẩu dầu mỏ cũng giảm đáng kể theo giá dầu thô trên thị trường kỳ hạn.

Giá dầu Brent năm nay trong xu hướng giảm do Saudi Arabia và các thành viên khác của OPEC không cắt giảm sản lượng, và Kuwait giảm giá chào bán dầu cho các khách hàng châu Á và bộ trưởng Dầu mỏ của Saudi băn khoăn về sự cần thiết phải cắt giảm sản lượng.

Kể từ phiên họp của khối hôm 27/11 tới nay, giá đã giảm 17% khi các nước này kiên quyết duy trì sản lượng khai thác 30 triệu thùng/ngày. Hiện giá dầu đang ở dưới chi phí sản xuất của nhiều nước. OPEC sẽ có cuộc họp tiếp theo vào ngày 5/6/2015 và với tình hình hiện nay thì vẫn còn nhiều quan ngại về giá cả thời gian tới. Trong báo cáo hàng tháng phát đi ngày 10/12, OPEC cho biết nhu cầu đang yếu đi trong bối cảnh nguồn cung gia tăng từ nguồn dầu đá phiến của Mỹ.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm theo xu hướng giá dầu. Giá vàng kỳ hạn giao tháng 2/2015 trên Sàn giao dịch kim loại New York (COMEX) giảm 2,6 USD (0,2%) xuống 1.231,80 USD/ounce. Mức giá này không xa so với mức thấp của sáu năm qua do các nhà đầu tư lo ngại về khả năng Mỹ nâng lãi suất - nhân tố làm giảm sức hấp dẫn của vàng.

James Steel, chuyên gia phân tích kim loại thuộc HSBC Securities tại New York, nhận định giá dầu suy yếu đã phần nào tác động đến thị trường vàng.

Tuy nhiên, thị trường chứng khoán đi xuống và đồng euro mạnh lên là các yếu tố tích cực giúp hạn chế đà giảm của giá vàng.  Bên cạnh đó, lượng vàng do SPDR Gold Trust, quỹ giao dịch vàng lớn nhất thế giới, nắm giữ đã tăng 0,37% lên 721,81 tấn trong phiên ngày 9/12.
Vàng trong nước giảm theo xu hướng giá thế giới. Sáng nay, mỗi lượng vàng miếng trong nước bán ra sáng nay về sát 35,28 triệu đồng. Độ vênh giữa hai thị trường hiện còn 3,6 triệu đồng.

Vàng SJC của Tập đoàn Doji mở cửa sáng nay tại 35,24 triệu đồng ở chiều mua, còn bán ra 35,28 triệu đồng. Giá giảm 50.000 đồng so với cùng thời điểm sáng hôm qua.

Tương tự, Công ty Vàng bạc đá quý Phú Nhuận (PNJ) cũng điều chỉnh giảm dần niêm yết. Lúc 8h45, bảng giá của doanh nghiệp này niêm yết mua - bán lần lượt ở 35,23-35,28 triệu đồng.

Nguyên nhân khiến vàng SJC giảm giá sáng nay là thị trường quốc tế vừa có phiên hạ 4 USD mỗi ounce khi chốt phiên Mỹ. Tuy nhiên, giá đã phục hồi nhẹ trong phiên Á, lên quanh 1.229 USD lúc 9h, giờ Hà Nội. Quy đổi tiền Việt, mỗi lượng vàng thế giới hiện tương đương 31,69 triệu đồng.

Thời gian gần đây, việc giá vàng trong nước điều chỉnh tăng chậm, giảm nhanh hơn giá thế giới đã giúp độ vênh giữa hai thị trường có chiều hướng thu hẹp. Hiện khoảng cách giữa giá vàng trong nước và thế giới chỉ còn khoảng 3,6 triệu đồng, thấp hơn vài trăm nghìn đồng so với tuần trước.

Giá vàng trong nước ít sóng khiến lượng giao dịch nhỏ lẻ trên thị trường cũng chưa thể khởi sắc. Theo hệ thống PNJ ghi nhận, ngày hôm qua khách mua và bán tiếp tục cân bằng với tổng giao dịch đạt 220 lượng.

Riêng với kênh sỉ, doanh nghiệp này cho biết lực bán ra giữ vai trò chủ đạo mỗi khi giá vàng tăng. Chính nguyên nhân trên lý giải mức tăng “khiêm tốn” của giá vàng nội trong những ngày qua khi chứng kiến giá thế giới tăng mạnh và giúp thu hẹp độ vênh giữa hai thị trường.

Riêng giá USD ngân hàng hiện duy trì mức khá ổn định. Theo đó, Vietcombank niêm yết giá USD quanh 21.335-21.385 đồng từ đầu tuần đến nay. Ngoài thị trường tự do, giá mua bán cũng chỉ chênh so với ngân hàng vài chục đồng.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
61,45
+0,51
+0,84%
Dầu Brent
USD/thùng
64,86
+0,62
+0,97%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
48.500,00
-1.580,00
-3,15%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
3,71
+0,01
+0,16%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
165,31
+1,13
+0,69%
Dầu đốt
US cent/gallon
206,50
+1,86
+0,91%
Dầu khí
USD/tấn
586,25
+4,25
+0,73%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
60.080,00
-1.400,00
-2,28%
Vàng New York
USD/ounce
1.229,40
0,00
0,00%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.661,00
-65,00
-1,38%
Bạc New York
USD/ounce
17,15
-0,04
-0,22%
Bạc TOCOM
JPY/g
65,00
-0,70
-1,07%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.248,63
+7,00
+0,56%
Palladium giao ngay
USD/t oz,
818,95
+4,50
+0,55%
Đồng New York
US cent/lb
290,30
+1,00
+0,35%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.415,00
-65,00
-1,00%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.959,00
-13,00
-0,66%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.180,00
-40,00
-1,80%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
20.250,00
-295,00
-1,44%
Ngô
US cent/bushel
396,00
+2,25
+0,57%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
580,00
-1,75
-0,30%
Lúa mạch
US cent/bushel
310,50
+0,25
+0,08%
Gạo thô
USD/cwt
12,25
-0,01
-0,08%
Đậu tương
US cent/bushel
1.038,75
+6,75
+0,65%
Khô đậu tương
USD/tấn
371,20
+2,10
+0,57%
Dầu đậu tương
US cent/lb
396,00
+2,25
+0,57%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
580,00
-1,75
-0,30%
Cacao Mỹ
USD/tấn
2.933,00
-19,00
-0,64%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
178,55
-1,90
-1,05%
Đường thô
US cent/lb
15,47
+0,05
+0,32%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb
148,05
+0,60
+0,41%
Bông
US cent/lb
59,83
+0,26
+0,44%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
334,70
+2,90
+0,87%
Cao su TOCOM
JPY/kg
193,10
-1,50
-0,77%
Ethanol CME
USD/gallon
1,68
+0,01
+0,30%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg