(VINANET) – Trong phiên giao dịch 12/8 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 13/9 giờ VN), giá dầu thô sụt giảm do nguồn cung tăng, cà phê cũng giảm sau phiên tăng giá trước đó.

Giá dầu đồng loạt sụt giảm do những báo cáo cho thấy nguồn cung dầu sẽ vẫn ở mức cao bất chấp chiến sự tại Lybia, Iraq và Ukraine.

Dầu thô ngọt nhẹ (WTI) trên thị trường New York kỳ hạn giao tháng 9 giảm 0,7% xuống 97,37 USD/thùng, trong khi dầu Brent tại London giá giảm 1,6% xuống 103,02 USD/thùng, ghi nhận mức giá thấp nhất kể từ ngày 1/7/2013.

Giá dầu tham chiếu cho thị trường toàn cầu, dầu Brent, đã giảm 10% kể từ tháng 6 khi chiến sự tại Iraq bùng nổ, dấy lên lo ngại, hoạt động sản xuất và xuất khẩu dầu của nước này sẽ bị ngưng trệ. Tuy nhiên, nguồn cung toàn cầu vẫn ở mức cao do nhu cầu tiêu thụ tại các nhà máy lọc dầu ở châu Âu và châu Á giảm thấp trong khi tồn kho dầu ở Tây Phi liên tục tăng cao.

Cơ quan năng lượng quốc tế (IEA) đã hạ dự báo tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ dầu xuống 1 triệu thùng/ngày, giảm 15% so với mức trước đó và cho biết, nhu cầu dầu toàn cầu trong quý II/2014 tăng ở tốc độ chậm nhất hơn 2 năm.

Sau khi IEA điều chỉnh số liệu dự báo, Ủy ban thông tin năng lượng Mỹ cũng cho biết, tiêu thụ dầu toàn cầu sẽ giảm nhẹ xuống 91,56 triệu thùng/ngày so với ước tính 91,62 triệu thùng trước đó.

Theo một số chuyên gia, với diễn biến địa chính trị hiện tại, nguồn cung dầu toàn cầu sẽ không bị gián đoạn nên thị trường dầu gần như không có động lực nào để tăng giá. Các chuyên gia dự báo, giá dầu Brent có thể giảm xuống 100 USD/thùng vào cuối tuần tới.

Đối với thị trường dầu tại Mỹ, giới thương nhân đang đợi số liệu tồn kho hàng tuần. Các chuyên gia phân tích dự báo, tồn kho dầu giảm 1,7 triệu thùng, dự trữ xăng và sản phẩm tinh chế từ dầu lần lượt giảm 1,3 triệu thùng và tăng 300.000 thùng vào tuần trước.

Hôm qua ngày 12/8, Viện dầu mỏ Mỹ cho biết, dự trữ dầu thô tăng 229.000 thùng trong khi tồn kho xăng tăng 2,7 triệu thùng và tồn kho sản phẩm từ dầu giảm 2,6 triệu thùng trong tuần trước.

Ngoài ra, giá dầu diesel giao tháng 9 giảm 1,2% xuống 2,85 USD/gallon và giá xăng RBOB giao tháng 9 giảm 0,7% xuống 2,73 USD/gallon.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do căng thẳng giữa Ukraine và Nga làm tăng nhu cầu kim loại quý này như tài sản trú ẩn an toàn. Hợp đồng kỳ hạn tháng 12 tăng 10 cent lên 1.310,6 USD/ounce, với khối lượng giao dịch thấp hơn 35% so với mức trung bình 30 ngày.

Lúc 9h15 sáng nay giá vàng giao ngay tại châu Á niêm yết tại Kitco.com có biên độ giảm nhẹ xuống mức 1.307,9 USD/ounce. Trước đó, giá vàng giao ngay tại đây có thời điểm tăng lên mức 1.316,8 USD/ounce.

Mặc dù căng thẳng địa chính trị đã khiến vàng tăng giá, nhưng kim loại quý này vẫn không có nhu cầu vật chất cao. Tại châu Á, khu vực tiêu thụ vàng hàng đầu thế giới, nhu cầu vẫn ảm đạm sau năm kỷ lục 2013; cùng với đó là việc nhà đầu tư đã cắt giảm vị thế tại Quỹ tín thác SPDR.

Tính từ đầu năm đến nay, giá vàng đã tăng 9%, thách thức dự báo giá giảm của Goldman Sachs Group Inc., khi bạo lực ở Đông Âu và Trung Đông làm tăng sự hấp dẫn của vàng như tài sản trú ẩn an toàn.

Bên cạnh đó, sự bế tắc giữa Nga và Ukraine đang gây tổn thương lòng tin kinh tế tại khu vực eurozone. Tinh thần của nhà phân tích và nhà đầu tư tại Đức, nền kinh tế lớn nhất châu Âu, trong tháng 8 giảm mạnh, xuống mức thấp nhất trong hơn 1 năm rưỡi qua.

Sáng nay 13/8, giá vàng trong nước tiếp tục giảm nhẹ theo xu hướng chuyển động của thị trường châu Á, dẫu vậy, khoảng cách chênh lệch vẫn duy trì mức cao 3,2 triệu đồng/lượng. Lúc 9h30 sáng nay 13/8, giá vàng SJC tại Hà Nội và TPHCM được Tập đoàn VBĐQ DOJI niêm yết giao dịch ở mức 36,64 triệu đồng/lượng (mua vào) - 36,68 triệu đồng/lượng (bán ra) đối với giao dịch bán lẻ và 36,65 triệu đồng/lượng - 36,68 triệu đồng/lượng đối với giao dịch bán buôn.

Trong tháng 7 vừa qua, giá vàng giảm 3% do lo ngại Fed sẽ sớm tăng lãi suất khi thị trường lao động được cải thiện. Năm 2013, những dấu hiệu cho thấy kinh tế Mỹ tăng trưởng đã khiến giá vàng giảm 28% khi chứng khoán tăng kỷ lục.

Với các kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,5% xuống 19,91 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,1% xuống 1.463,6 USD/ounce, trong khi giá palladium tăng 0,2% lên 874,93 USD/ounce.

Trên thị trường cà phê, giá quay đầu giảm sau báo cáo cho thấy các nhà kinh doanh đã mua vào quá nhiều trong thời gian qua.

Giá arabica tại New York giảm khoảng 4,4-4,55 cent/lb, với hợp đồng giao tháng 9 giá giảm 4,55 cent/lb (-2,46%) xuống 184,6 cent/lb, kỳ hạn giao tháng 12 giá giảm 4,45 cent/lb (-2,36%) xuống 188,9 cent/lb, và giá kỳ hạn tháng 3/2015 giá giảm 4,4 cent/lb (-2,29%) xuống 192,55 cent/lb.

Giá robusta tại London cũng giảm khá mạnh khoảng 19-22 USD/tấn, với kỳ hạn giao tháng 9 giá giảm 22 USD/tấn, tương đương 1,12%, xuống 1.964 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 11 giá giảm 21 USD/tấn, tương đương 1,06%, xuống 1.976 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá giảm 20 USD/tấn xuống 1.980 USD/tấn.

Theo báo cáo của Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO), khối lượng cà phê xuất khẩu tháng 6/2014 giảm 0,2% so với cùng kỳ năm 2013, đưa lượng xuất khẩu cà phê 9 tháng đầu năm cà phê (tháng 9/2013-tháng 10/2014) chỉ đạt 81,8 triệu bao, giảm 3,5% so với cùng kỳ năm ngoái, chủ yếu do tác động đến trữ lượng thị trường tiêu dùng, nhưng mọi dấu hiệu cho thấy trữ lượng tiêu dùng vẫn đủ để hỗ trợ các ngành thị trường tiêu dùng. Đặc biệt với sản lượng mùa vụ mới từ Trung Mỹ và Việt Nam chuẩn bị tham gia thị trường trong quý IV năm nay, không có lý do gì phải lo lắng về các ngành thị trường tiêu dùng.

Giá cà phê Việt Nam sáng nay giảm theo xu hướng giá thế giới. Sáng nay cà phê nhân xô tại các tỉnh Tây Nguyên giảm 500.000 đồng/tấn xuống 37,7-38,8 triệu đồng/tấn. Cà phê Robusta giao tại cảng TPHCM giá FOB hôm nay giảm 22 USD từ 1.946 USD/tấn hôm qua xuống 1.924 USD/tấn.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá 13/8
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
97,17
-0,20
-0,21%
Dầu Brent
USD/thùng
102,79
-0,23
-0,22%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
65.750,00
-460,00
-0,69%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
3,97
-0,00
-0,10%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
272,50
-0,95
-0,35%
Dầu đốt
US cent/gallon
284,89
+0,39
+0,14%
Dầu khí
USD/tấn
873,00
-1,75
-0,20%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
82.340,00
-290,00
-0,35%
Vàng New York
USD/ounce
1.310,60
10
0,08%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.304,00
+2,00
+0,05%
Bạc New York
USD/ounce
19,98
+0,07
+0,35%
Bạc TOCOM
JPY/g
65,80
-0,20
-0,30%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz.
1.468,19
-0,81
-0,06%
Palladium giao ngay
USD/t oz.
876,45
-1,90
-0,22%
Đồng New York
US cent/lb
314,90
-0,55
-0,17%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.965,00
-30,00
-0,43%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
2.052,00
+18,50
+0,91%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.330,00
+26,00
+1,13%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
22.475,00
+75,00
+0,33%
Ngô
US cent/bushel
368,00
-1,00
-0,27%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
539,25
+1,25
+0,23%
Lúa mạch
US cent/bushel
331,00
-1,50
-0,45%
Gạo thô
USD/cwt
12,69
+0,04
+0,32%
Đậu tương
US cent/bushel
1.064,75
+5,25
+0,50%
Khô đậu tương
USD/tấn
345,20
+1,70
+0,49%
Dầu đậu tương
US cent/lb
35,10
+0,12
+0,34%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
435,50
+0,10
+0,02%
Cacao Mỹ
USD/tấn
3.238,00
+17,00
+0,53%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
188,90
-4,45
-2,30%
Đường thô
US cent/lb
16,05
-0,19
-1,17%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
143,90
-0,05
-0,03%
Bông
US cent/lb
63,76
+0,39
+0,62%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
345,20
+1,70
+0,49%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
345,10
+1,00
+0,29%
Cao su TOCOM
JPY/kg
199,20
-1,90
-0,94%
Ethanol CME
USD/gallon
1,98
+0,01
+0,41%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg