(VINANET) – Phiên giao dịch 13/1 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 14/1 giờ VN), giá dầu tiếp tục giảm xuống mức thấp nhất 6 năm,về sát 45 USD/thùng. Dầu Brent trong ngày có lúc đã giảm sâu xuống ngang bằng giá dầu thô của Mỹ. Trong khi đó giá vàng tăng khá mạnh.

Năng lượng
Giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 2/2015 trên sàn giao dịch Nymex New York giảm giảm 18 cent (-0,4%) xuống 45,89 USD/thùng, thấp nhất kể từ tháng 4/2009. Giá dầu Brent kỳ hạn giao tháng 2/2015 trên sàn ICE Futures Europe London giảm 84 cent (-1,8%) xuống 46,59 USD/thùng, thấp nhất kể từ tháng 3/2009.

Trong ngày, có lúc giá dầu WTI xuống mức 44,20 USD, còn dầu Brent xuống 45,19 USD.

Như vậy, riêng trong tuần này giá dầu thô Brent đã giảm tổng cộng 7% và giá dầu thô của Mỹ giảm 5%. Giá dầu năm 2014 đã giảm tổng cộng hơn 50%, mức giảm lớn nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008.
Giá dầu tiếp tục giảm sâu sau khiBộ trưởng Dầu mỏ UAE hôm thứ Ba 13/1 cho biết, OPEC sẽ giữ nguyên quyết định duy trì sản lượng. Chính phủ Mỹ cũng đưa ra dự báo thị trường dầu toàn cầu vẫn dư cung trong năm nay và năm tới.

Các tiểu vương quốc Arab Thống nhất, một thành viên lớn trong Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa (OPEC), một lần nữa lên tiếng bảo vệ quyết định của nhóm này không cắt giảm sản lượng khai thác hàng ngày của OPEC.

Hoàng tử Arab Saudi, Alwalleed bin Talal, tỷ phú dầu mỏ, trong cuộc phỏng vấn với Fox Business News đăng trên USA Today đã nói rằng: “Nếu nguồn cung tiếp tục duy trì như hiện nay và nhu cầu dầu toàn cầu vẫn yếu ớt, giá dầu sẽ còn giảm sâu hơn nữa, và nếu điều ngược lại xảy ra, giá dầu sẽ tăng. Nhưng tôi tin rằng giá dầu sẽ không bao giờ quay lại mốc 100 USD/thùng”, Hoàng tử Alwaleed bin Talal cho biết.Theo ông, mức giá trên 100 USD/thùng một năm trước là hoàn toàn không xác thực và quyết định không giảm sản lượng là rất sáng suốt và đúng đắn

Trong cuộc phỏng vấn, ông Alwaleed cho biết, chính phủ Arab Saudi và các nhà sản xuất dầu khác cũng đang chịu ảnh hưởng nhất định khi giá dầu giảm, tuy nhiên, việc từ chối giảm sản lượng là chiến lược khôn ngoan để giữ thị phần.

Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), trong dự báo ra hôm thứ Ba 13/1, cho rằng nguồn cung dầu toàn cầu sẽ tiếp tục vượt nhu cầu trong năm 2015 và 2016, đồng thời dự đoán giá dầu WTI trung bình năm 2015 đạt 54,58 USD/thùng trước khi tăng lên 71 USD/thùng năm 2016.

Giới thương nhân đang chờ số liệu tồn kho hàng tuần của EIA, công bố vào ngày 14/1. Dự đoán số liệu của EIA sẽ cho thấy nguồn cung dầu Mỹ tăng 500.000 thùng trong tuần kết thúc vào 9/1. Giới phân tích cũng dự đoán dự trữ xăng tăng 2,6 triệu thùng, trong khi dự trữ sản phẩm chưng cấp, kể cả dầu đốt nóng và diesel, tăng 1 triệu thùng.

Viện Dầu mỏ Mỹ (API) hôm 13/1 cho biết, theo số liệu của Viện, dự trữ dầu thô của Mỹ trong tuần kết thúc vào 9/1 tăng 3,9 triệu thùng, trong khi dự trữ xăng tăng 1,6 triệu thùng và nguồn cung sản phẩm chưng cất tăng 400.000 thùng.

Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 2/2015 trên sàn Nymex giảm 0,6 cent, tương đương 0,5%, xuống 1,2685 USD/gallon, thấp nhất kể từ tháng 3/2009. Giá dầu diesel giao tháng 2/2015 giảm 2,11 cent (-1,3%) xuống 1,6330 USD/gallon, thấp nhất kể từ tháng 7/2009.

Kim loại công nghiệp

Giá đồng thế giới vừa giảm xuống mức thấp nhất 5 năm rưỡi, dẫn đầu đà giảm trên thị trường kim loại công nghiệp, do tăng trưởng toàn cầu chậm lại làm giảm triển vọng nhu cầu hàng hóa.

Đồng đã giảm giá 6,1% vào đầu sáng nay trên thị trường Tokyo, mức giảm chưa từng có kể từ tháng 10/2011. Nickel và thiếc giảm hơn 1,5 do giá dầu giảm trên cả hai sàn London và New York.

Kim loại quý
Phiên giao dịch đêm qua, giá vàng biến động rất mạnh, có lúc vọt lên mức cao kỷ lục 12 tuần, nhưng giảm nhẹ trở lại vào lúc kết thúc ngày khi giới đầu tư bán chốt lời.
Vàng giao ngay ngay trên thị trường New York kết thúc phiên ở mức giá 1.230,50 USD/ounce, trong khi vàng kỳ hạn giao tháng 2/2015 trên sàn Comex New York kết thúc ở mức 1.234,4 USD/ounce.

Giá vàng tăng hơn 4% trong tháng này khi chứng khoán – tăng mạnh hồi năm ngoái với hy vọng kinh tế Mỹ tiếp tục hồi phục – đang phải chịu áp lực. Chứng khoán tăng đã khiến giá vàng giảm 1,5% trong năm 2014.

Chứng khoán Mỹ giảm về cuối phiên, đánh mất toàn bộ mức tăng 1% trước đó, chủ yếu do cổ phiếu năng lượng và nguyên liệu giảm mạnh khi giá hàng hóa tiếp tục lao dốc.

USD tăng trở lại chủ yếu nhờ triển vọng kinh tế Mỹ so với các nước khác trên thế giới, tạo điều kiện cho Fed tiếp tục lộ trình nâng lãi suất trong năm nay.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc tăng 3% lên 17,03 USD/ounce, sau khi tăng 4% lên 17,19 USD, cao nhất kể từ 12/12; giá bạch kim giảm 0,1% xuống 1,236,98 USD/ounce, trong khi giá palladium tăng 0,6% lên 810,98 USD/ounce.

Cà phê

Thị trường cà phê thế giới tiếp tục biến động trái chiều giống phiên trước đó. Trên thị trường New York giá arabica kỳ hạn giao tháng 3/2015 tăng 0,2 US cent/lb lên 176,95  US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 0,25 US cent/lb lên 179,65 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 0,3 US cent/lb lên 182,15 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá tăng 0,35 cent/pound lên 184,2 US cent/lb.

Thị trường cà phê arabica được hỗ trợ sau báo cáo của Hợp tác xã Cà phê Cocatrel tại Minas Gerais, bang trồng cà phê arabica chủ chốt của Brazil, cho rằng sản lượng cà phê của bang Minas Gerais năm nay giảm 20% so với năm ngoái chủ yếu do thời tiết khô hạn.

Tuy nhiên trên thị trường London giá tiếp tục giảm, với hợp đồng kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá giảm 11 USD/tấn xuống 1.942 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 9 USD/tấn xuống 1.964 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 8 USD/tấn xuống 1.993 USD/tấn; và kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 6 USD/tấn xuống 2.017USD/tấn.

Cà phê Việt Nam giảm theo giá robusta. Sáng nay (14/1), giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên giảm 200.000 đồng/tấn xuống 39,7-40,5 triệu đồng/tấn. Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay giảm 9 USD/tấn từ 1.883 USD/tấn cuối tuần trước xuống 1.874 USD/tấn.

Theo Báo cáo Cam kết Thương nhân mới nhất, trong tuần kết thúc vào 6/1, giới đầu cơ đã giảm 1,36% vị thế mua ròng cà phê robusta trên sàn London xuống 10.923 lô, tương đương 1.820.500 bao.

Trong khi đó, dự báo mới nhất đều cho thấy lượng mưa tại các vùng trồng cà phê arabica chủ chốt của Brazil thấp hơn 50% so với mức trung bình. Đến nay, nhiều vùng trồng cà phê đều có lượng mưa khá khiêm tốn, tình trạng này sẽ tiếp tục vào tuần tới và phải đến nửa cuối tuần sau, thời tiết mới có thể thay đổi.

Hôm 12/1 Hiệp hội Xuất khẩu Brazil cho biết, xuất khẩu cà phê nhân của nước này trong năm 2014 đạt 32,86 triệu bao, tăng 4,78 triệu bao (+17,02%) so với 28,08 triệu bao năm 2013. Thông tin này cho thấy, nguồn cung cà phê của Brazil sẽ đạt khoảng 30 triệu bao/năm. Xét đến tiêu thụ cà phê nội địa Brazil đạt khoảng 20 triệu bao/năm và lượng tồn kho lớn, nên năm nay dự đoán chỉ thiếu hụt vài triệu bao và thị trường tiêu thụ có thể dễ dàng chấp nhận được.

Tồn kho cà phê arabica chế biến ướt có chứng chỉ trên sàn New York hôm 12/1 giảm 526 bao xuống 2.288.000 bao, trong khi số bao chờ đánh giá, phân hạng tăng 550 bao lên 24948 bao.

Tồn kho cà phê robusta có chứng chỉ trên sàn London trong 2 tuần qua tính đến 5/1 tăng 61.667 bao (+2,92%) lên 2.171.333 bao.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT
Giá
+/-
+/-(%)

Dầu thô WTI

USD/thùng
46,02
+0,13
+0,28%

Dầu Brent

USD/thùng
46,59
0,00
0,00%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl
37.250,00
-220,00
-0,59%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu
2,95
0,00
+0,10%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon
126,39
-0,46
-0,36%

Dầu đốt

US cent/gallon
162,17
-1,13
-0,69%

Dầu khí

USD/tấn
463,50
+5,25
+1,15%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl
48.740,00
+60,00
+0,12%

Vàng New York

USD/ounce
1.230,50
-3,90
-0,32%

Vàng TOCOM

JPY/g
4.644,00
-65,00
-1,38%

Bạc New York

USD/ounce
16,99
-0,17
-1,00%

Bạc TOCOM

JPY/g
64,10
+0,20
+0,31%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz,
1.234,00
-6,75
-0,54%

Palladium giao ngay

USD/t oz,
809,00
-6,53
-0,80%

Đồng New York

US cent/lb
248,75
-15,65
-5,92%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn
5.860,00
-157,00
-2,61%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn
1.791,50
-18,50
-1,02%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn
2.081,00
-57,00
-2,67%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn
19.525,00
-375,00
-1,88%
Ngô
US cent/bushel
385,00
-0,75
-0,19%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel
549,00
+1,00
+0,18%

Lúa mạch

US cent/bushel
292,75
-0,50
-0,17%

Gạo thô

USD/cwt
11,48
+0,04
+0,31%

Đậu tương

US cent/bushel
1.008,50
+4,50
+0,45%

Khô đậu tương

USD/tấn
334,00
+0,40
+0,12%

Dầu đậu tương

US cent/lb
32,76
+0,22
+0,68%

Hạt cải WCE

CAD/tấn
450,30
0,00
0,00%

Cacao Mỹ

USD/tấn
2.991,00
-3,00
-0,10%

Cà phê Mỹ

US cent/lb
176,95
+0,20
+0,11%

Đường thô

US cent/lb
14,87
+0,11
+0,75%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb
143,45
+0,15
+0,10%
Bông
US cent/lb
60,15
+0,42
+0,70%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg
-
-
-%

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet
319,30
+4,10
+1,30%

Cao su TOCOM

JPY/kg
197,00
-6,80
-3,34%

Ethanol CME

USD/gallon
1,41
-0,05
-3,09%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg