(VINANET) – Phiên giao dịch 15/6 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 16/6 giờ VN), nhiều mặt hàng chủ chốt giảm giá do lo ngại cung vượt cầu, trong đó có dầu, kim loại đồng và lúa mì.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm phiên thứ 3 liên tiếp do lo ngại dư cung trên toàn cầu sẽ còn tiếp diễn.

Đóng cửa phiên giao dịch, dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 7/2015 trên sàn Nymex New York giảm 44 cent, tương đương 0,7%, xuống 59,52 USD/thùng. Dầu Brent cùng kỳ hạn trên sàn ICE Futures Europe London giảm 1,26 USD, tương ứng 2%, xuống 62,61 USD/thùng. Hợp đồng giao tháng 7 đáo hạn trong phiên này. Giá dầu Brent giao tháng 8/2015 giảm 69 cent, tương đương 1,1%, xuống 63,95 USD/thùng.

Như vậy, giá dầu WTI giảm 3,1% so với mức đỉnh của năm ghi nhận hồi tuần trước, còn giá dầu Brent giảm 7,6% so với mức đỉnh của năm ghi nhận trong tháng 5 vừa qua.

Theo bản báo cáo công bố cuối tuần qua của công ty năng lượng British Petroleum (BP) của Anh, cuộc cách mạng dầu đá phiến là nhân tố chủ chốt giúp Mỹ năm 2014 chính thức soán ngôi Saudi Arabia và Nga trở thành nước sản xuất dầu mỏ lớn nhất thế giới. Cuộc cách mạng dầu đá phiến là nguyên nhân chính làm cho sản lượng khai thác dầu của Mỹ tăng đột biến, giúp Mỹ năm 2014 qua mặt Saudi Arabia và Nga, trở thành quốc gia sản xuất dầu và khí đốt nhất thế giới. Thực tế này giúp Mỹ giờ đây bớt phụ thuộc hơn vào nguồn năng lượng nhập khẩu, một yếu tố từng gây tổn hại đối với sự cân bằng trong cán cân thương mại và nền kinh tế Mỹ.

Hôm thứ Hai 15/6, Platts cho biết, OPEC - dẫn đầu là Arab Saudi - đã nâng sản lượng dầu tháng 5 lên 31,1 triệu thùng/ngày, cao nhất kể từ tháng 10/2012 và cao hơn 1 triệu thùng/ngày so với mục tiêu sản lượng và cao hơn 1,8 triệu thùng/ngày so với dự báo nhu cầu dầu của Khối này.

Báo cáo của Platts đã dấy lên lo ngại về tình trạng cung vượt cầu. Sản lượng dầu toàn cầu tiếp tục tăng trong khi nhu cầu nhiên liệu không bắt kịp. OPEC đã từ chối cắt giảm sản lượng, lựa chọn bảo vệ thị phần.

Theo giới phân tích, Libya cũng có thể tăng sản lượng dầu, trong khi Iraq đang bơm với mức kỷ lục.

Số lượng giàn khoan hoạt động ở Mỹ gần đây có xu hướng giảm khiến nhiều thương gia ngành dầu hy vọng cuộc “bùng nổ” giàn khoan dầu đá phiến của Mỹ sắp qua đi. Nhưng thực tế thì những giàn khoan đóng cửa là những giàn khoan kém hiệu quả.

Theo số liệu của Baker Hughes, số giàn khoan đang hoạt động tuần qua ghi nhận tuần thứ 27 giảm liên tiếp. Nhưng Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) ước tính sản lượng dầu Mỹ vẫn đi lên khi tăng 24.000 thùng/ngày trong tuần trước lên 9,6 triệu thùng/ngày, cao hơn 14% so với cùng kỳ năm ngoái và cao nhất trong hơn 4 thập kỷ qua.

Cuộc đàm phán nợ giữa Hy Lạp và các chủ nợ thất bại vào cuối tuần trước cũng đang gây áp lực lên giá dầu khi giới đầu tư lo ngại rằng Hy Lạp có thể vỡ nợ và phải rời khỏi eurozone, gây ra suy thoái kinh tế tại châu Âu và kéo giảm nhu cầu nhiên liệu.

Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 7/2015 trên sàn Nymex giảm 2,2 cent, tương ứng 1%, xuống 2,0991 USD/gallon. Giá dầu diesel giao tháng 7/2015 giảm 1,89 cent, hoặc 1%, xuống 1,8703 USD/gallon.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng có một phiên đầy biến động, tăng mạnh đầu phiên nhưng lại giảm mạnh cuối phiên.
Tính chung trong ngày, giá vẫn nhích nhẹ so với cuối phiên trước, sau khi các cuộc đàm phán giữa Hy Lạp và chủ nợ đổ vỡ.

Giá vàng giao ngay tăng 0,5% lên 1.186,6 USD/ounce, trong khi giá vàng giao tháng 8/2015 trên sàn Comex New York tăng 6,6 USD, tương đương 0,6%, lên 1.185,8 USD/ounce.

Quan điểm trái ngược giữa Hy Lạp và chủ nợ trong các cuộc đàm phán nợ cũng đang hỗ trợ giá vàng. Sau khi các cuộc đàm phán đổ vỡ, Cao ủy EU của Đức tuyên bố đã đến lúc cần chuẩn bị cho “tình trạng khẩn cấp”.

USD giảm 0,2% so với các đồng tiền chủ chốt trong giỏ tiền tệ.

Giới đầu tư hy vọng Fed có thể đưa ra tín hiệu rõ ràng về thời điểm nâng lãi suất lần đầu tiên trong gần một thập kỷ quan trong phiên họp chính sách diễn ra vào 16-17/6.

Quỹ tín thác lớn nhất thế giới SPDR tiếp tục bán ra vào hôm thứ Sáu 12/6. Lượng vàng nắm giữ của Quỹ hiện ở mức thấp nhất kể từ 2008.

Trong khi đó, nhu cầu vàng vật chất tại châu Á vẫn ảm đạm.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 1,2% lên 16,11 USD/ounce, giá bạch kim giảm xuống thấp nhất 6 năm ở 1.072,5 USD/ounce và giá palladium giảm 0,5% xuống 733 USD/ounce.

Trên thị trường nông sản, cà phê arabica giảm giá mạnh trên 3% do các quỹ hàng hóa tích cực bán ra, với arabica kỳ hạn giao tháng 9 giá giảm 4,1 US cent hay 3,1% xuống 1.303 USD/lb. Tuy nhiên, robusta lại tăng nhẹ khi hợp đồng giao tháng 9 tăng 1 USD hay 0,06% lên 1.734 USD/tấn.

Đặc biệt, đường thô giảm xuống mức thấp kỷ lục 6 năm rưỡi do tồn trữ quá nhiều trong khi thời tiết trồng mía ở Brazil lại thuận lợi và sản lượng dự kiến tăng ở Ấn Độ và Thái Lan.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
59,52
-0,44
-0,07%
Dầu Brent
USD/thùng
62,61
-1,26
-1,97%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
49.040,00
-300,00
-0,61%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
2,91
+0,02
+0,73%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
209,32
-0,59
-0,28%
Dầu đốt
US cent/gallon
186,71
-0,32
-0,17%
Dầu khí
USD/tấn
576,00
-9,25
-1,58%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
63.670,00
-150,00
-0,24%
Vàng New York
USD/ounce
1.185,40
-0,40
-0,03%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.702,00
+29,00
+0,62%
Bạc New York
USD/ounce
16,04
-0,05
-0,30%
Bạc TOCOM
JPY/g
63,90
+0,70
+1,11%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.088,94
+1,56
+0,14%
Palladium giao ngay
USD/t oz,
735,50
+0,55
+0,07%
Đồng New York
US cent/lb
264,80
-0,20
-0,08%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
5.815,00
-97,00
-1,64%

 Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn
1.717,00
-22,00
-1,27%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.105,00
-18,00
-0,85%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
14.800,00
+50,00
+0,34%
Ngô
US cent/bushel
352,75
-6,00
-1,67%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
495,25
-15,25
-2,99%
Lúa mạch
US cent/bushel
266,50
-0,75
-0,28%
Gạo thô
USD/cwt
9,78
+0,10
+0,98%
Đậu tương
US cent/bushel
904,25
--
--
Khô đậu tương
USD/tấn
294,30
--
--
Dầu đậu tương
US cent/lb
33,02
-0,35
-1,05%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
479,90
-3,30
-0,68%
Cacao Mỹ
USD/tấn
3.198,00
+53,00
+1,69%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
130,30
-4,10
-3,05%
Đường thô
US cent/lb
11,83
-0,24
-1,99%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb
120,85
-1,45
-1,19%
Bông
US cent/lb
63,63
-1,03
-1,59%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
--
--
--
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
296,40
+0,30
+0,10%
Cao su TOCOM
JPY/kg
229,40
+0,50
+0,22%
Ethanol CME
USD/gallon
1,46
-0,02
-1,35%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg