(VINANET) – Giá hàng hóa trên thị trường thế giới biến động nhẹ trong phiên giao dịch đầu tuần 15/9 (kết thúc vào rạng sáng 16/9 giờ VN), chịu ảnh hưởng từ số liệu kinh tế yếu kém của Trung Quốc và khả năng Fed sắp tăng lãi suất.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu biến động trái chiều, tiếp tục chịu ảnh hưởng từ các số liệu kinh tế.

Giá dầu thô ngọt, nhẹ kỳ hạn giao tháng 10 trên sàn Nymex tăng 65 cent (+0,7%) lên 92,92 USD/thùng, mức cao nhất kể từ 5/9. Tuy nhiên, giá dầu Brent kỳ hạn giao tháng 10 trên sàn ICE giảm 46 cent (-0,5%) xuống 96,65 USD/thùng, thấp nhất kể từ 28/6/2012. Như vậy giá dầu Brent đã giảm 17% từ mức cao nhất hồi giữa tháng 6/2014.

Sản lượng công nghiệp của Trung Quốc - nước tiêu thụ dầu thô lớn thứ 2 thế giới - tăng trưởng chậm nhất kể từ năm 2008 và doanh số bán xe mới giảm.

Thị trường tiếp tục chịu áp lực khi sản lượng dầu của Mỹ, Libya và Iraq tiếp tục tăng trong khi nhu cầu vẫn yếu ớt, nhất là tại châu Âu và Trung Quốc.

Carl Larry, nhà phân tích tại Oil Outlooks & Opinions ở Houston, cho biết, mọi người đang chờ đợi xem OPEC sẽ hành động thế nào. Arab Saudi mới đây cho biết, đã giảm sản lượng dầu trong tháng 8, một dấu hiệu cho thấy OPEC có thể sẽ đồng loạt giảm sản lượng. Tuần trước, trong một cuộc phỏng vấn với Wall Street Journal, Tổng thư ký OPEC cho biết, ông hy vọng giá dầu sẽ hồi phục vào cuối năm nay.

Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 10 tăng 1,2 cent (+0,5%) lên 2,5308 USD/gallon. Trong khi đó, giá dầu diesel giao tháng 10 giảm 0,09 cent xuống 2,7396 USD/gallon, thấp nhất kể từ 17/4/2013.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng trở lại sau khi số liệu cho thấy tốc độ tăng trưởng sản lượng công nghiệp tháng 8 của Trung Quốc chậm nhất gần 6 năm qua. Tuy nhiên, giá vẫn quanh mức thấp nhất 8 tháng khi nhà đầu tư vẫn lo ngại Fed có thể bắt đầu kế hoạch tăng lãi suất sớm hơn dự kiến.

Giá vàng cũng được hỗ trợ khi chứng khoán giảm giá và hiện tượng bán tháo diễn ra vài tuần trước. Vàng thường được coi là tài sản trú ẩn nhưng giá có thể phải chịu áp lực nếu Fed nâng lãi suất, khiến nhà đầu tư quay lại với tài sản có thu nhập ổn định.

Giá vàng giao tháng 12 trên sàn Comex tăng 3,6 USD lên 1.235,1 USD/ounce với khối lượng giao dịch thấp hơn 25% so với mức trung bình 100 ngày, theo số liệu của Bloomberg.

Giới đầu tư sẽ theo dõi sát sao Ủy ban Thị trường Mở Liên bang Mỹ (FOMC) khi bắt đầu phiên họp 2 ngày vào thứ Ba 16/9. Một số người tin rằng Fed có thể đưa ra dấu hiệu bắt đầu nâng lãi suất trước thời điểm giữa năm 2015.

Với các kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,1% lên 18,58 USD/ounce. Hôm thứ Sáu tuần trước, giá chạm mức thấp nhất kể từ tháng 6/2013. Giá bạch kim giảm 0,2% xuống 1.357,25 USD/ounce, trong khi giá palladium giảm 0,2% xuống 831,75 USD/ounce.

Trên thị trường cà phê, giá đồng loại giảm trong phiên đầu tuần. Cà phê Arabica kỳ hạn giao tháng 9 trên thị trường New York giá giảm 2,35 US cent/lb xuống 177,3 US cent/lb, kỳ hạn giao tháng 12 giá giảm 2,35 US cent/lb xuống 182,2 US cent/lb, kỳ hạn tháng 3/2015 giá giảm 2,3 US cent/lb xuống 186,3 US cent/lb và kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 2,25 US cent/lb xuống 188,75 US cent/lb.

Giá Robusta kỳ hạn giao tháng 9 trên thị trường London giảm 20 USD, tương đương -1,01%, xuống 1.955 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 11 giá giảm 20 USD/tấn, tương đương -1%, xuống 1.977 USD/tấn. Kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá giảm 18 USD/tấn, tương đương -0,9%, xuống 1.989 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 19 USD xuống 1.999 USD/tấn.

Cà phê Việt Nam giảm theo giá thế giới. Sáng nay (16/9), cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên, sau khi tăng nhẹ phiên cuối tuần trước, đã đảo chiều giảm 300.000-500.000 đồng/tấn xuống 38,1-39,4 triệu đồng/tấn. Giá cà phê Robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB giảm 20 USD từ 1.927 USD/tấn cuối tuần trước xuống 1.907 USD/tấn.

Liên đoàn Cà phê châu Âu cho biết, tồn kho tại cảng của lục địa này trong tháng 7 tăng 5,1% lên mức cao nhất một năm qua, đạt 11.652.030 bao. Đây là lượng cà phê tồn kho tại các cảng Antwerp, Barcelona, Bremen, Hamburg, Genova, Le Havre an Trieste, chưa tính lượng tồn kho của các nhà rang xay khoảng 3 triệu bao. Mức tiêu thụ cà phê của Tây và Đông Âu đạt khoảng 836.000 bao/tuần. Như vậy, dự trữ tồn kho của châu Âu ước đạt gần 14,5 triệu bao, đủ cho 17,3 tuần.

 
 
Giá
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
92,70
-0,22
-0,24%
Dầu Brent
USD/thùng
97,89
+0,01
+0,01%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
65.810,00
-510,00
-0,77%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
3,91
-0,02
-0,46%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
253,23
+0,15
+0,06%
Dầu đốt
US cent/gallon
273,95
-0,01
-0,00%
Dầu khí
USD/tấn
831,25
-0,25
-0,03%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
81.230,00
-300,00
-0,37%
Vàng New York
USD/ounce
1.237,10
+2,00
+0,16%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.258,00
-4,00
-0,09%
Bạc New York
USD/ounce
18,73
+0,11
+0,59%
Bạc TOCOM
JPY/g
64,60
+0,40
+0,62%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz.
1.368,50
+5,19
+0,38%
Palladium giao ngay
USD/t oz.
841,00
+6,25
+0,75%
Đồng New York
US cent/lb
309,35
+0,80
+0,26%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.820,00
-18,00
-0,26%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.991,00
-38,00
-1,87%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.249,00
-27,00
-1,19%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
21.100,00
-175,00
-0,82%
Ngô
US cent/bushel
343,25
+0,25
+0,07%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
503,50
+2,75
+0,55%
Lúa mạch
US cent/bushel
356,00
+1,50
+0,42%
Gạo thô
USD/cwt
12,73
-0,03
-0,24%
Đậu tương
US cent/bushel
992,50
+3,00
+0,30%
Khô đậu tương
USD/tấn
328,00
+1,00
+0,31%
Dầu đậu tương
US cent/lb
33,51
+0,04
+0,12%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
416,10
+0,10
+0,02%
Cacao Mỹ
USD/tấn
3.057,00
+4,00
+0,13%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
182,20
-2,35
-1,27%
Đường thô
US cent/lb
16,27
-0,05
-0,31%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
144,80
-1,65
-1,13%
Bông
US cent/lb
65,84
0,00
0,00%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
336,60
-2,00
-0,59%
Cao su TOCOM
JPY/kg
191,60
+1,40
+0,74%
Ethanol CME
USD/gallon
1,73
+0,01
+0,29%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg